Truyện cổ tích - Nàng tiên cóc Truyện cổ tích Nàng tiên cóc kể về những người giàu lòng yêu thương, sống nhân hậu sẽ được đền bù xứng đáng, sẽ được người khác giúp đỡ, yêu thương mình. Thời gian đọc:5 phút . A A. A A.
Đọc truyện dịch Kiếm Vương Triều Quyển 3 Chương 110 của tác giả Vô Tội trên trang hayfull.com. Chọn lọc. Truyện Đọc Nhiều Truyện Đánh Giá Cao Truyện Full Truyện Mới. Đồng tử của thiếu niên áo bạc hơi co rút lại, hắn bất ngờ lên tiếng.
262. Chàng Cóc Lấy Vợ Tiên . . Ngày xưa, trong một bản vắng, có hai vợ chồng nọ đã sống qua nhiều mùa nương mà chưa có con nối dòng. Họ buồn rầu như cỏ tranh già ngày nắng. Ngày ngày, người vợ thắp hương cầu khấn mong trời thương cảnh nghèo đơn chiếc ban cho một
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiếm hoi, cầu Trời khấn Phật mãi người vợ mới có thai, nhưng đến khi sinh ra, không phải là người mà lại là một con cóc. Con cóc lớn lên, biết nói tiếng
Trăng chưa lặn, tỏa một ánh sáng dịu dàng. Nàng tiên cá uống liều thuốc nóng bỏng. Nàng thấy hình như có một thanh kiếm hai lưỡi đâm xuyên qua làn da thịt mềm mại, và nàng nằm đấy, ngất đi. Khi mặt trời chiếu sáng trên ngọn sóng, nàng tỉnh dậy, và thấy người đau nhói.
1. Nguồn gốc của yếu tố thần kì trong văn học dân gian. Nguồn gốc của yếu tố thần kì trong văn học dân gian, trước hết, có thể nhận biết từ thần thoại, một thể loại văn học dân gian được coi là hình thức văn hoá tinh thần đầu tiên của loài người (C. Mác).
rP8cM38. Trang chủ Làm mẹ Truyện cổ tích cho bé Chàng trai vượt qua mọi rào cản quyết lấy cóc về làm vợ và đã nhận được món quà bất ngờ khi bỗng một ngày cóc biến thành một "tiên nữ" vô cùng xinh đẹp. Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiếm hoi, cầu Trời khấn Phật mãi người vợ mới có thai, nhưng đến khi sinh ra, không phải là người mà lại là một con cóc. Con cóc lớn lên, biết nói tiếng người, song hình thù sần sùi, xấu xí, khiến cha mẹ nó lấy làm buồn phiền, thường than thở với nhau “Vợ chồng mình già cả, hiếm hoi, tưởng sinh được mụn con nối dòng, trông nom đỡ đần mình, ngờ đâu oan gia nghiệp báo lại sinh ra cóc, còn trông mong gì nữa”! Cóc nghe thấy thế, khuyên cha mẹ đừng lo. Rồi ngay hôm sau cóc nhảy đi coi ruộng cho cha mẹ, và từ khi nó trông nom đồng áng thì chẳng có ai lấy trộm lúa ruộng nhà nó như trước nữa. Một hôm, có mấy thư sinh đi qua ruộng nó, dẫm lên lúa, bỗng nghe có tiếng lanh lảnh như giọng con gái bảo rằng “Xin các cậu đi cho có ý tứ kẻo làm nát lúa nhà em”. Lũ thư sinh nhìn vào ruộng lúa, chẳng thấy ai, chỉ thấy một con cóc đang ngồi đó. Tiếng nói dịu ngọt làm cho một anh trong bọn đâm ra có cảm tình. Chàng thư sinh này bấy lâu đọc sách đạo thần tiên, tin tưởng có sự mầu nhiệm ở đời, nên về nhà nói với cha mẹ xin hỏi cóc làm vợ. Ban đầu cha mẹ thư sinh tưởng con mình hóa dại, song anh ta cứ một mực đòi lấy cóc làm vợ cho kỳ được, nếu không thì thề quyết chẳng lấy ai. Người cha bèn kiếm cớ từ khước, bảo chỉ có một mình anh ta là con trai, cưới cóc về có sinh ra được con cái để nối dòng không? Thư sinh tin là sẽ có sự nhiệm màu xảy đến trong ngày cưới cóc về, Tiên Phật sẽ giúp cho cóc thành người có đức hạnh, nhan sắc hơn đời. Thấy con đã nhất quyết như vậy, cha mẹ anh ta cũng đành phải chiều theo, đem trầu cau đi hỏi cóc. Truyện cổ tích Nàng tiên cóc Đến ngày cưới, bên nhà trai mang đủ lễ vật, đồ nữ trang, quần áo cho cô dâu như người thường, chàng rể hy vọng Tiên Phật hóa phép cho cóc thành một cô gái xinh tươi như chàng vẫn mộng tưởng. Cả hai họ cũng trông mong như vậy, nhưng đến khi rước dâu, mọi người phải tức cười và xấu hổ vì đưa đón một con cóc nhảy về nhà chồng. Cha mẹ chồng vừa rầu, phiền cho con trai, vừa chua xót vì con dâu cóc, liền cấp ruộng cho đôi lứa đi ở riêng. Thư sinh cũng buồn lòng, cặm cụi học hành, nghiên cứu các khoa học thần bí, hy vọng gỡ rối cho gia đình, nhất là đối với cha mẹ già đang khát khao có cháu bế. Cóc thì siêng năng công việc ở nhà, thức khuya dậy sớm khuyên chồng chăm chỉ bút nghiên. Ngày ngày anh ta đi học về thì đã thấy cơm nước sẵn sàng, nhà cửa sạch sẽ ngăn nắp, mới nghĩ bụng rằng trong lúc vắng mình, chắc vợ trút lốt cóc thành người, chứ một con cóc thì làm sao lo việc nội trợ khéo léo được thế kia? Mấy bận anh ta thử rình, ra đi rồi thình lình trở về bất ngờ, hy vọng bắt gặp vợ là một cô gái xinh đẹp, song chỉ thấy một con cóc sần sùi ở nhà. Anh van nài cóc hóa thành người đẹp cho mình được sung sướng, nhưng cóc vẫn thản nhiên không tỏ vẻ gì cả. Một tối, anh cho cóc hay tin mình được bổ đi dạy ở trường tỉnh, ngỏ thật rằng mình không thể đưa vợ đi theo nếu vợ vẫn giữ lốt cóc. Từ ngày cưới về anh ta đã chịu biết bao lời chế diễu của hàng xóm, bè bạn. Hơn nữa, cha mẹ vẫn thúc dục anh lấy thêm vợ khác để có con nối nghiệp tông đường. Cóc lặng yên nghe chồng than thở, khuyên chồng chớ nên quá buồn phiền, và xin phép hôm sau về nhà thăm cha mẹ. Sáng ngày, cóc đi theo chồng, được một quãng thì nhảy vào một cái bụi bên đường. Thư sinh dừng bước lại thì thấy ở bụi cây đi ra một cô gái xinh đẹp lạ lùng, quá sức ước mong của anh bấy lâu. Anh sung sướng ngẩn ngơ nhìn người vợ đẹp lại gần, say đắm ngắm nghía vợ từ đầu đến chân rồi thiết tha xin vợ từ đây cứ giữ hình người. Biết là vợ đã trút lốt cóc ra trong bụi, anh ta kiếm cớ đi lùi lại sau rồi chạy lẻn đến bụi tìm lốt cóc mà dấu vào mình. Đến nhà, cha mẹ thư sinh mừng rỡ thấy con dâu cóc đã hóa ra người xinh đẹp, dịu dàng. Anh chồng hân hoan thừa lúc mọi người không để ý đến, đem lốt da cóc bỏ vào bếp lửa cho tiêu tan. Hai vợ chồng ở lại nhà cha mẹ cả đôi bên luôn mấy ngày, vui vẻ tiệc tùng liên tiếp rồi mới trở về nhà. Trên đường về vợ kiếm cớ vào bụi cây để tìm lại lốt cũ, không thấy, chồng mới cho hay là mình đã lấy đốt đi rồi. Vợ đành phải giữ nguyên hình người để về với chồng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau đằm thắm vui vẻ, vợ sinh được nhiều con cái, chồng học thi đỗ cao làm nên chức lớn, sống một đời sung sướng. Tin liên quan Tin bài cùng chủ đề Truyện cổ tích cho bé
Nàng tiên Cóc hay nhiều người vẫn quen gọi là truyện Lấy vợ Cóc kể về một anh học trò lấy được nàng tiên xinh đẹp nhưng luôn ẩn mình trong lốt cóc xấu xí. Thế gian lắm chuyện nực cười Ai hay Cóc lại hóa người Tiên sa. 1. Anh học trò lấy vợ Cóc Ngày xưa, có một nhà làm ruộng hiếm hoi, chỉ sinh được một gái thì lại là…Cóc. Hai vợ chồng rất lấy làm bồn tủi, nhưng biết sao trót đẻ phải nuôi, chẳng lẽ đem con vứt ra đầu đường xó bụi. Một hôm, bắt đầu mùa gặt, người vợ nhân đi thăm ruộng về bèn lên tiếng phàn nàn ngay từ ngoài ngõ – Không biết đứa chết tiệt nào cứ rứt bừa cả lúa ra! Ruộng nhà mình sát ngay đường cái, mình lại neo người, nghĩ tức quá! Cóc nghe thấy lời mẹ than, bèn thưa rằng – Cha mẹ để con đi canh lúa cho! – Con là Cóc, dù thấy người ta rứt lúa đi nữa thì con làm gì được? – Con thấy ai rứt lúa, con cứ ở trong ruộng kêu lên là tự khắc người ta phải thôi. Cóc phân trần kể có lý, vả lại hai vợ chồng bác nông phu cũng không còn biết tính cách nào khác được, nên phải nhận lời. Nàng tiên Cóc Trong số những người hay qua lại bên ruộng nhà mình, Cóc để ý đến một anh học trò tẩn mẩn nọ. Thấy anh ta nghịch ngợm, Cóc không mắng, mà chỉ hát rằng – Anh chàng ơi! Hỡi anh chàng Sao anh rứt hại lùa vàng nhà em! Giọng nói ngân nga hay quá! Anh học trò lắng nghe và nghĩ đến một gương mặt đẹp như tiên nữ. Thế rồi, hôm sau và hôm sau nữa, anh học trò càng rứt nhiều lúa hơn, không phải để chỉ cắn chắt, mà chỉ cốt được nghe giọng hát tuyệt vời ấy. Cóc hiểu ý anh học trò trẻ tuổi nên đánh bạo – Hỡi anh đi đường cái quan Dừng chân đứng lại em than vài lời Buồng xuân lần lữa hôm mai, Đầu xanh mấy độ da mồi tóc sương! Anh học trò nhìn quanh, thấy vắng liền cũng hát – Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Cóc trả lời – Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. – À, nếu thế, ta vào vậy! – Anh học trò vừa nghĩ vừa lần xuống ruộng, nhưng người đâu chẳng thấy, anh ta chỉ vẳng nghe tiếng nói rất gần – Em thấy chàng là hiền sĩ. Em muốn kết duyên cùng chàng, chẳng hay chàng có bằng lòng không? Thực là một sự kỳ dị khiến anh học trò ngơ ngẩn. – Kìa sao chàng bỡ ngỡ thế. Em đây, em đứng trước mắt chàng đây thôi! Lấy vợ Cóc Trước mặt anh học trò, chỉ có một con Cóc. Tuy vậy, anh học trò ta cũng không hoảng hốt quá đáng, vì thủa bấy giờ, Tiên Phật xuống thử người trần như thế là thường. Anh ta chỉ ngán ngẩm đáp – Nàng là Cóc, tôi lấy nàng sao được! Cóc vội cam đoan – Em tuy là Cóc, nhưng về đường tề gia nội trợ, em có thể giúp chàng nhiều lắm, chàng đừng lo. Anh học trò bụng bảo dạ Không lẽ Cóc mà biết nói! Hay là ta cứ thử về kể với mẹ xem sao. Về đến nhà, chàng học trò thuật rõ đầu đuôi việc xảy ra cho mẹ nghe. Bà lão thấy kì lạ vô cùng, cũng nghĩ ngay đến chuyện Tiên lấy chồng, Phật đi thử. Và vì con trai quả quyết chỉ muốn được kết duyên cùng nàng Cóc, nên bà đành gật đầu chấp nhận. Vợ chồng người làm ruộng bắt ngay lấy cơ hội để thở than và trách móc số phận – Ấy, bà có lòng thương hỏi đến làm chúng tôi thêm xấu hổ Ai lại vợ chồng hiếm hoi, cầu khấn mãi mới được mình cháu thì, đấy bà xem người chẳng ra người, vật chẳng ra vật! Cóc ngồi trong buồng kín, nghe thấy cha mẹ than thế, liền thưa vọng ra rằng – Người ta đã có lòng đến hỏi, mẹ cha cứ nhận thời đừng ngại. Con sẽ không làm cha mẹ phải phiền lòng về chuyện này đâu ạ! Nghe thấy ý định quả quyết và giọng nói sang sảng như tiếng chuông vàng khiến bà mẹ anh học trò càng tin chắc ở một sự phi thường. Và khi bà đứng dậy ra về, hôn lễ của nàng Cóc và anh học trò đã ấn định. Ngày cưới, hai họ đưa đón tưng bừng. Hàng xóm nghe chuyện lạ, kéo nhau đến xem, đông không khác gì đi xem hội. Nàng Cóc điềm nhiên, nhảy theo dám rước dâu. Khi về tới nhà chồng, nàng chui ngay vào buồng kín. Từ đấy, cứ hễ mẹ chồng đi chợ buôn bán, chồng nghiên bút đến trường, Cóc lại trút lốt ra, thu xếp quét dọn cửa nhà, làm cơm dẻo canh ngọt để sẵn sàng đấy. Bà lão và con trai ngày nào cũng ăn uống thơm ngon, thêm thấy cửa nhà ngăn nắp sạch sẽ, lấy làm thoả mãn không biết chừng nào. 2. Nàng tiên Cóc thi tài Anh học trò chỉ còn phải khổ sở mỗi khi thò mặt đến trường việc anh lấy vợ Cóc đã thành một cớ để các bạn đồng môn nhạo báng. Họ mỉa mai, họ khinh miệt anh ta, bảo anh làm như đàn bà trong thiên hạ không còn ai nữa! Một hôm, họ lập tâm ác nghiệt đến bàn nhau xin với thầy đồ rằng – Nhân ngày sinh nhật của thầy, anh em chúng con muốn đặt ra một cuộc thi cỗ. Thầy sẽ chấm nhất vào cỗ nào thầy cho là khéo nhất. Truyện cổ tích Nàng tiên Cóc Thầy đồ ưng thuận. Anh học trò trở về nhà buồn bã, lo đến nỗi quên cả ăn, bỏ cả học, chỉ biết nằm mà thở dài. Cóc gạn hỏi chồng – Có việc gì mà khiến chàng ra vẻ băn khoăn thế? Chàng cứ yên tâm ăn uống và đọc sách đi. Cho dù là việc gì đi nữa thì cũng đừng ngại, sẽ có em lo liệu chu toàn hết cả. Cóc gặng hỏi đến hai ba bận, anh chồng mới ngại ngùng nói thật. – Từ khi tôi lấy nàng, tôi bị chúng bạn chê bai tệ quá! Bây giờ họ lại xin với thầy đồ cho thi cỗ, chừng để mang tôi ra làm một trò cười ác nghiệt… – Ồ, tưởng gì! Nếu họ muốn thi cỗ thì rồi họ sẽ được xem cỗ thiếp nấu! Thôi, chàng dậy xơi cơm đi, rồi cứ đến trường học như thường. Lúc nào họ mang cỗ lại đủ thì chàng về mà lấy. Tuy chưa dám tin hẳn vào lời của vợ, anh học trò cũng không biết làm cách nào hơn là cứ ôm nghiên bút đến trường. Truyện Nàng tiên Cóc Ngày hôm sau, mấy chục mâm cỗ nghênh ngang vào cổng nhà ông đồ. Mâm của anh học trò lấy vợ Cóc bị chúng bạn anh lừa đặt xuống cuối cùng. Nhưng, lúc nếm đến những món thơm ngon và lạ miệng bày trong mâm này, thầy đồ khen tấm tắc mãi, rồi phê cho được nhất. Đang tự đắc và nhơn nhơn thu xếp một trận cười, lũ học trò người nào người nấy mặt mũi tưng hửng như mèo bị cắt tai vậy. Chúng thẹn quá hoá tức, bàn với nhau – Nhất định thua keo này bày keo khác, chứ lại chịu nó à? Rồi chúng lại xin với thầy đồ cho thi may quần áo Hễ bộ nào thầy mặc vừa vặn và đẹp nhất thì sẽ đoạt giải. Anh học trò lấy vợ Cóc lại phải một phen phải lo lắng. Cóc lại phải kiếm lời an ủi chồng – Chàng ơi, cơm dẻo canh ngọt chàng hãy xơi đi, còn công việc gì đã có thiếp lo liệu. Câu chuyện Nàng tiên Cóc Nàng tiên Cóc chờ khi chồng đến trường học, liền hoá phép đi mua vóc nhiễu và bí mật đến đo người thầy nên lúc áo may xong đem thi, lại được thầy chấm nhất. Còn của các anh kia thì hoặc dài quá, hoặc ngắn quá, hoặc rộng quá, hoặc chật quá, đều thua cuộc. Chúng càng trở nên cay cú, vội vàng cùng nhau bàn kế – Lần này, ta xin phép thầy cho thi xem vợ anh nào đẹp nhất. Vợ chúng ta xấu tốt cũng là người; vợ nó là Cóc lẽ nào không chịu thua, chịu nhục! Thật đúng là Bể sâu còn có kẻ dò Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng! Anh học trò lấy vợ Cóc nghe tin, cảm thấy tê tái trong lòng. Phải cố gắng lắm mới bước về được đến nhà. Thấy chồng nằm dài trên giường, chẳng nói chẳng rằng, Cóc lại gạn hỏi – Hai lần thi cũng đã được nhất, chàng sao còn ưu phiền đến thế? Câu hỏi dịu dàng của vợ càng làm anh thổn thức. Anh kể lể – Đã đành hai bận trước mình đều thắng cuộc, nhưng bây giờ họ lại giở trò thi sắc đẹp của những người vợ với nhau, thì đúng là cố ý ép ta mất mặt còn gì! Muốn bắt nàng đến trường để thi… Bọn chúng thật là ác độc! Hai mắt Nàng tiên Cóc sáng lên một cách ranh mãnh – Chàng đừng ngại, em không để chàng bị nhục với những người đồng môn kia đâu! Đã hai lần được vợ giữ trọn lời hứa, anh học trò cũng hơi vững dạ. Đến ngày thi, vợ các sĩ tử đua nhau trang điểm để phô mầu thanh lịch. Họ vui cười ầm ĩ, vì dù sao mọi người đều đã nắm chắc phần thắng Cóc một cách dễ dàng. Truyện cổ tích Lấy vợ Cóc Trong khi ấy, anh học trò kia ngại ngùng dẫn vợ đến trường. Anh ta đi trước, chị vợ lạch bạch nhảy theo sau. Cái cảnh tượng ấy làm cho mọi người phải cười ôm bụng và anh chồng cứ phải cúi gằm mặt xuống, thân thể nóng bừng như lên cơn sốt. Có lần anh ta đã nói phẫn – Thế này, thà ở nhà quách! Đi lắm chỉ tổ mua cười cho thiên hạ! Cóc cười rất giòn – Làm gì mà quýnh lên thế! Hãy cứ cho đến nhà thầy đồ đã nào. Tới cổng trường, Cóc thấy chồng rụt rè không dám bước, liền giục – Chàng vào trước đi, em vào ngay. Anh ta ngờ vực nhưng cũng giả làm theo lời vợ. Kỳ thực anh ta nấp ở xó cổng để rình xem vợ làm ăn ra sao thì thấy Cóc nhảy vào bụi rậm. Một lát sau, từ đám lau sậy, một nàng tiên yểu điệu bước ra, làm anh chàng lóa mắt! Giải nhất lại lần nữa về vợ chồng nhà Cóc. Và lần này, trước vẻ đẹp nảy hào quang của nàng Cóc, bọn đồng môn thành thực và vui vẻ chịu thua. Để tỏ ra không còn chút thù oán, ganh tị gì nữa, chúng đồng thanh bầu anh chồng chị Cóc làm trưởng tràng. Truyện cổ tích Nàng tiên Cóc – – [alert style=”danger”] [/alert]
Những nàng tiên là nhân vật thường xuyên xuất hiện trong truyện cổ tích, đây là những nhân vật chiếm được sự yêu mến của đông đảo các bạn đọc, đặc biệt là trẻ em. Bởi đa phần đây là tuyến nhân vật chính diện, tượng trưng cho công lý, công bằng. Đây là những nhân vật có năng lực siêu nhiên, có vai trò giúp đỡ những nhân vật chính, hoặc đảm nhận luôn vai trò chính. Có rất nhiều câu chuyện viết về những nàng tiên khiến người đọc thích thú 1001 Truyện Cổ Tích Việt Nam Và Thế Giới Chọn Lọc Hay Nhất Những Câu Chuyện Cổ Tích Hay Về Lòng Hiếu Thảo Những Câu Chuyện Cổ Tích Hay Về Tấm Lòng Nhân Hậu 1. Truyện cổ tích Nàng tiên thứ chín Ngày xưa, có một bà cụ già có một người con trai lớn, nhưng bà nghèo quá chẳng có tiền để hỏi vợ cho con. êm nào thấy con trai nằm ngủ một mình bên bếp lửa, bà cũng ra đầu sàn ngồi nhìn trời mà đêm, sau khi khóc nhiều quá, bà ngã đầu vào cái vách ngủ mê đi lúc nào không biết. Một ánh chớp loé lên, bà cụ vội mở mắt thì thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo xanh, đi giầy xanh, chống gậy xanh, đứng trên ngọn cây mít. Hoảng quá, bà cụ định chạy vào bếp, thì thấy ông cụ già khoát tay, cất giọng hiền từ bảo “Ta là tiên, biết bà đang khổ vì cảnh nghèo khó, không có tiền đi hỏi vợ cho con, nên ta giúp. Ngày mai bà bảo con trai bà đi theo hướng ta chỉ, cứ đi mãi đến ngọn núi có phiến đá trắng to như cái nhà kia, sẽ thấy chín nàng tiên xuống tắm. Con trai bà yêu cô nào, thì cứ lấy đôi cánh của nàng tiên ấy đem về nhà là được .” Nói xong Tiên ông biến mất. Mừng quá, bà cụ liền đẩy cửa, vào thổi bếp lửa cháy bùng lên, gọi con dậy, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừa qua. Tờ mờ sáng hôm sau, người con trai gói cơm, đeo ống nước, băng rừng, leo núi, leo hết núi này đến núi khác, đúng trưa mới đến chỗ tiên ông bảo. Một cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Hồ nước xanh biếc, trong vắt như gương, có đường xuống bến tắm, trên bờ hoa thơm, cỏ lạ đang đua nở khoe sắc cùng ong bướm, sỏi đá lấp lánh như kim cương. Thấy nắng rung rinh, chàng đưa mắt ngó lên trời, bỗng từ trong đám mây hồng có chín nàng tiên mặc áo xiêm trắng, đang bay và hạ xuống dần. Chàng con trai nghèo liền nép vào bụi nhìn theo. Chín nàng tiên đã đứng trên các phiến đá ngọc, cởi cánh ra, lội xuống tắm. Nước trong, da các nàng tiên trắng ngần, nhìn cô nào cũng đẹp lộng lẫy như mặt trời mọc. Duy có nàng thứ chín là đẹp hiền hậu hơn cả. Tóc nàng đen mướt và dài như dòng suối, giọng cười trong và thanh như tiếng sáo ngân vang miệng đẹp hơn hoa nở, mắt sáng như sao, khi nàng nhìn vào vật gì vật đó rực lên như có trăm ngàn ánh hào quang chói sáng. Chàng trai liền lẻn đến lấy trộm cặp cánh tiên của cô thứ chín, rồi trở về nhà. Trống trên trời gióng bảy hồi khoan nhặt báo giờ các cô phải về tiên cung. Tám cô chị lên bờ, lắp cánh của mình và bay trước. Còn cô em mải đùa nghịch dưới làn nước mát, lên sau. Không thấy cánh tiên đâu nữa, nàng hoảng hốt cuống cuồng chạy quanh bờ. Trống trên trời vẫn giục giã, sắp đến giờ đóng cửa của thiên đình. Nàng tiên thứ chín lại chạy quanh bến nước chăm chú tìm lại, nhưng thông thấy. Nhìn dấu chân người còn in trên cát mịn, dấu chân trên đường xuống núi, biết có kẻ lấy đôi cánh của mình rồi, nàng vội vã cài lại áo xiêm, lần theo dấu chân đi mãi . Xế chiều nàng đến một ngôi nhà sàn nhỏ, dựng lẻ loi dưới chân núi. Nàng đang phân vân không biết đi ngả nào, thì một cụ già đến bên nàng chào hỏi “Cháu ơi! ường xa vắng vẻ, cháu đi một mình như thế này nguy hiểm lắm, cháu hãy vào nhà ta ăn cơm, uống nước rồi nghỉ lại đã.” Nhìn nét mặt hiền hậu của bà cụ, nàng tiên gục đầu vào vai bà khóc, kể lại việc nàng bị mất đôi cánh tiên nên không về trời được. Bà cụ đưa nàng vào nhà. Chàng con trai sung sướng bước ra chào hỏi, rồi vào rừng bẻ măng, nhổ nấm đem về đưa mẹ nấu canh cho cô gái ăn. Tối chàng ngồi kéo đàn kơ ri – loại nhạc cụ réo rắt như đờn cò của người kinh – cho cô gái yên giấc. Ở đây một tháng, hai tháng, lúc đầu nàng tiên thứ chín hết sức nhớ mẹ, nhớ cha, nhưng được sự chăm sóc, trìu mến của bà cụ và chàng trai hiền hậu, siêng năng, nên nàng khuây khoả dần. Buổi sáng nàng cũng đi lên rẫy, vào rừng, buổi chiều nàng cũng ra giếng đội nước với chị em. Nửa năm sau người con trai bà cụ lấy nàng tiên. Hai vợ chồng sống bên nhau rất hòa thuận, vui vẻ. Dân làng ví họ là cặp vợ chồng chim sáo – vì họ vừa xinh đẹp, vừa chịu khó làm ăn. Người chồng chưa bao giờ mắng vợ nửa lời. Chiều nào lên rừng về, chàng cũng cố tìm cho mẹ và vợ một ống mực thơm, một bó rau ngót, một bó măng, hay lưng gùi ngô non thơm sữa. Hai mùa, ba mùa, đến một đêm trăng tròn vành vạnh, nàng tiên thứ chín sinh được một đứa con trai kháu khỉnh. Từ đó, trong nhà càng thêm đầm ấm, vui vẻ hơn. Nhưng một hôm trời đang yên lành, bỗng có tiếng sấm ầm ầm, giận dữ. Mây đen, mây xám kéo đầy trời. Lửa đỏ rực, chớp nhằng nhịt dữ tợn. Người vợ vừa cõng con ra đứng đầu sàn phía tây, đột nhiên thấy thiên lôi từ trên trời cầm búa nhảy xuống sân. Mặt giận dữ, Thiên lôi bảo rằng, hắn vâng lệnh Trời, xuống bắt nàng tiên phải về ngay, nếu không sẽ giết chết con nàng, giết cả chồng và người mẹ chồng của nàng nữa. Thương con, thương chồng quá, nàng tiên ngã gục xuống khóc nức nở rồi chạy vào nhà rút ba ống nứa dài vắt đầy sữa, nhẹ nhàng đặt con lên chiếu, cắt một nắm tóc để lại cho chồng, rồi theo Thiên lôi về thiên đình. Chiều bà cụ và người chồng về nhà, không thấy nàng tiên, chỉ thấy đứa con nằm ngủ bên nắm tóc thơm của mẹ nó. Nhìn cây cối ngả nghiêng, cháy xém, biết có điều hung dữ xảy ra, chàng cõng con trên lưng, bước xuống cầu thang đi vào rừng, nhìn trời khóc suốt chín ngày đêm. Tiếng khóc ai oán, ấm ức nghe nghẹn cả cổ, đau cả lòng. ược tin, dân làng thương quá, rủ nhau giúp sức, góp của. Nhờ bác thợ rèn chuyên nghề chim sắt biết bay, đúc cho hai cha con người xấu số ấy một con chim công sắt. ược chim sắt rồi, hai cha con ngồi trên lưng công bay vút lên trời. Qua mây hồng, mây bạc, mây xanh, đến sông Hằng sắp tới triều đình, thì công sắt không tài nào bay qua được. Gió to, sóng gầm dữ dội. Năm bảy lần con công cất cánh đều lao đao muốn rớt. Hai cha con đành ở bên này sông. Một hôm, người vợ ra sông giặt áo, đứa con nhỏ thấy mẹ, liền gọi lên. “Mẹ ơi!” Người vợ quay sang, hai vợ chồng nhìn thấy nhau, nhưng không gần nhau được. au khổ quá, họ bưng mặt khóc. Dân làng nhà trời thấy vậy vô cùng thương xót. Họ vào xin thiên đình cho hai vợ chồng được gặp nhau. Nhưng thiên đình không cho, viện cớ sắp gả nàng tiên thứ chín cho chàng trai thuộc dòng họ quyền quý. Không quản ngại, dân làng liên tiếp cử người đến gõ cửa, buộc thiên đình phải xử. Cuối cùng Ngọc Hoàng phải xuống lệnh nếu chồng cô thứ chín làm được mấy việc sau này mới lấy được con gái nhà trời. Thứ nhất là trong một ngày phải nhặt hết số vừng rơi trong khu rẫy dài bằng một khoảng chim bay mỏi cánh. Thứ hai là phải ăn hết những ớt gió đã chín trong một khu rừng ớt. Thứ ba là phải làm một cái nhà bằng kim cương thật đẹp giữa sông Hằng. Thương con, thương vợ người chồng phải nhận. Sáng hôm sau, hai cha con dậy thật sớm để nhặt vừng, nhưng mãi cho tới trưa, khi mặt trời đã ở giữa đỉnh đầu mà vẫn chưa nhặt được bao nhiêu. Thấy thế, Tiên ông liền đọc phù chú, gọi một bầy chim sẻ đông nghịt, bay xuống nhặt hộ, chẳng mấy chốc đã hết nhẵn. Nhưng còn rừng ớt chín đỏ kia làm sao hái hết cho được. Người chồng cố hái ăn, bụng nóng như lửa đốt, mắt đỏ xè, thế mà mới ăn được mấy quả. Tiên ông thấy vậy , liền niệm thần chú hoá ra một đàn chim chào mào bay xuống ăn giúp. Trong giây lát cả rừng ớt chỉ còn trơ lại cành lá. ến nay người Hê- rê giải thích chim chào mào đỏ đít là do ngày xưa nó ăn ớt cứu người. ã đến lúc phải xây nhà kim cương giữa sông Hằng chảy xiết. Chàng trai và dân làng đổ rất nhiều công đẵn gỗ thả xuống sông, nhưng gỗ dù nặng dù to mấy đều bị nước cuốn phăng đi như cuốn một cái lá. Một ngày không được, một tháng không được, một mùa không được, một năm không xong, hết phương kế, chàng trai ôm con ngồi bên bờ sông than khóc thảm thiết. Thần cá liền ra lệnh cho cá chình, cá sấp, cá chép, lươn chạch, cua, rùa, cá lóc, cá nghạnh… đều bơi lại giúp. Một con chình to lớn quẫy mạnh, nhô đầu lên bảo “Anh đừng lo, ngày mai anh sẽ có nhà đẹp và sẽ được gặp vợ. Hãy vui lên, đừng khóc nữa!” Quả đúng như vậy, sáng hôm sau, khi mặt trời vừa thức giấc, bỗng có một ngôi nhà lấp lánh bằng kim cương hiện lên đồ sộ giữa sông. Chung quanh sóng vỗ rạt rào. Chiếc nhà do các loài cá xây nên, cá chình nhận làm cột, cá lóc làm sạp, cá sấp, cá chép làm mái nhà. Cá nghạnh làm xà, rùa làm bếp, cua làm móc chiêng, lươn, chình thì nối đuôi nhau thành một cái cầu tuyệt đẹp từ bờ ra đến giữa sông. Ngọc Hoàng cùng thần hung ác thấy nhà đẹp mới chịu đem thuyền cho anh chàng nghèo sang sông gặp vợ. Còn bọn chúng thì hí hửng khiêng lúa, gạo, chiêng, ché ra nhà kim cương ở, chúng lao nhao tổ chức lễ ăn mừng. Nhưng khi vừa nhóm lửa nấu thịt thì rùa làm bếp bị nóng lưng quá lăn ngay xuống nước. Cùng lúc cá chình, cá lóc, cá sấp, cá trê… cũng lăn theo. Nhà đổ sập làm chìm cả lũ gian thần xuống dòng sông chảy xiết đầy cá sấu, cá măng. Trời cao vòi vọi, sóng nước mênh mông trắng xoá. Từ đó nàng tiên thứ chín và chồng được cai quản thiên đình, làm cho mưa rơi xuống, mát mẻ trần gian. Làm cho nắng chiếu xuống để cây cỏ xanh tươi, bốn mùa hoa nở. Lâu lâu họ chắp cánh bay xuống tắm ở suối ngọc rồi về thăm mẹ già và bà con quê cũ. Câu chuyện là hành trình đi tìm tình yêu của chàng trai, vượt qua hết những hiểm nguy, chàng trai đã chứng minh tình yêu không phân biệt giai cấp giàu nghèo. Nhân dân ta đã gửi gắm ước mơ về việc phá bỏ ranh giới giàu nghèo, tin tưởng rẳng chỉ cần có tình yêu, thì dù là người phàm, tiên nữ cũng có thể đến được với nhau. Câu chuyện là lời khẳng định chắc chắn rằng bên thiện luôn là bên chiến thắng, bên ác sẽ bị trừng trị. 2. Truyện cổ tích Nàng tiên ốc Ngày xưa, ở một ngôi làng nọ, có một bà lão nghèo sống bằng việc đi mò cua bắt ốc qua ngày. Một lần, bà bắt được một con ốc rất xinh đẹp, nó có một cái vỏ màu biêng biếc xanh, không hiểu sao bà lại thấy rất yêu con ốc này, bà quyết định không bán và đem về nhà nuôi trong chum nước. Hàng ngày, bà vẫn đi mò cua bắt ốc nhưng khi về đến nhà bà rất đỗi ngạc nhiên thấy sân nhà sạch sẽ, đàn lợn đã được ăn no, vườn rau sạch cỏ và cơm nước nấu tinh tươm. Bà băn khoăn và tự hỏi không biết ai đã giúp mình. Thấy chuyện lạ, bà quyết định rình xem ai là người đã giúp đỡ mình. Bà không ngờ được người giúp bà chính là cô gái chui ra từ trong vỏ ốc xanh kia, từ trong chum nước bước ra. Bà liền bí mật đập vỡ vỏ ốc xanh đi, rồi ôm lấy người con gái, mong cô ở lại sống với bà, cô gái đồng ý. Từ đó, họ sống yêu thương nhau và rất hạnh phúc. Câu chuyện có mô típ quen thuộc như truyện Tấm Cám, hình ảnh của những nàng tiên tảo tần, chăm chỉ đã đi vào tâm hồn của biết bao độc giả. Câu chuyện vừa ca ngợi sự lương thiện của bà lão, vừa khuyên chúng ta phải biết yêu thương chia sẻ, đặc biệt phải biết ơn những người đã giúp đỡ mình, giống như nàng tiên ốc đã trở thành con gái của bà lão. 3. Truyện cổ tích Nàng tiên gạo Ngày xưa, có một nhà chỉ có hai mẹ con. Người mẹ già yếu, không đi nương rẫy làm được nữa. Cô gái rất thương mẹ, suốt ngày chăm chỉ làm lụng nuôi mẹ già. Năm ấy hạn hán to, mất mùa đói kém xảy ra. Cô gái và mọi người trong làng đổ dồn về làm thuê cho lão nhà giàu trong vùng. Lão bắt mọi người làm việc cả ngày nhưng chỉ cho ăn một bát cơm độn với rất nhiều ngô sắn. Mỗi ngày cô ăn nửa bát cơm, còn nửa bát cô gói mang về cho mẹ. Ban đêm, cô phải ngủ cạnh kho lúa canh chuột. Một đêm, vừa chợp mắt thì cô nghe thấy tiếng thở dài, rồi một giọng dịu dàng “Ta là Tiên gạo đây. Ta đã nhầm khi giúp lão keo kiệt kia, có của mà không biết thương người. Lão xưa kia nghèo khổ, nhưng thương người nên ta giúp hắn trở nên giàu có. Nhưng càng giàu hắn càng thay đổi tính nết, đâm ra tham lam độc ác. Rồi ta sẽ trị lão thích đáng”. Khi nương lúa vàng ươm, chỉ còn đợi gặt. Lão sợ người làm trộm lúa nên đuổi hết thảy mà chẳng trả một xu. Bỗng nước từ đâu ào tới tràn ngập nhà lão, lúa má trên nương dưới ruộng đều bị cuốn sạch. Sau đại hạn, mưa thuận gió hòa, khắp nơi được mùa. Trong khi đó lão nhà giàu gọi người làm nhưng không ai đến. Họ bảo nhau tránh xa lão tham lam keo kiệt. Lão khánh kiệt, không còn nổi bát cơm ăn. Cô gái lại vào rừng đào củ, hái măng, tần tảo nuôi mẹ già. Một hôm vừa ra đến cửa rừng thì gặp bà lão ăn mày. Bà cụ run lẩy bẩy vì rét, miệng rên hư hử “Tôi… mệt… Tôi… đói!”. Cô vội vàng vơ lá đốt lửa sưởi, nướng măng cho bà ăn. Bà cụ nhai ngon lành, hết cái măng thì kêu khát nước. Cô liền xách ống tre ra suối lấy nước. Trở lại, chẳng thấy bà cụ đâu. Chỉ thấy cái gùi không. Cô bèn đeo gùi về định hôm sau trả lại, nhưng mãi chẳng gặp lại bà cụ. Cô đành cất gùi lên gác bếp. Kỳ lạ thay, đi làm về, cô lại thấy trong gùi có đầy thóc. Thì ra đó là những hạt ngọc nuôi sống con người mà bà tiên đã ban tặng cho cô. Cô gái mang thóc cho mọi người làm giống. Dân trong làng chẳng bao giờ biết đến cái đói cái rét nữa. Từ các cụ già đến trẻ con, ai cũng tấm tắc khen cô gái đẹp người lại đẹp nết. Hình ảnh nàng tiên gạo tượng trưng cho hạt ngọc của đất trời. Gạo là lương thực quan trọng nhất của nhân dân ta, nàng tiên trong câu chuyện bảo hộ cho sự giàu có, vì vậy cô đã quyết định không giúp lão địa chủ tham lam. Câu chuyện còn khuyên chúng ta không nên ích kỉ chỉ nghĩ đến của cải vật chất, tục ngữ có câu “ Tham thì thâm”, biết vừa đủ bao giờ cũng tốt hơn. 4. Nàng tiên cóc Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiếm hoi, cầu Trời khấn Phật mãi người vợ mới có thai, nhưng đến khi sinh ra, không phải là người mà lại là một con cóc. Con cóc lớn lên, biết nói tiếng người, song hình thù sần sùi, xấu xí, khiến cha mẹ nó lấy làm buồn phiền, thường than thở với nhau “Vợ chồng mình già cả, hiếm hoi, tưởng sinh được mụn con nối dòng, trông nom đỡ đần mình, ngờ đâu oan gia nghiệp báo lại sinh ra cóc, còn trông mong gì nữa”! Cóc nghe thấy thế, khuyên cha mẹ đừng lo. Rồi ngay hôm sau cóc nhảy đi coi ruộng cho cha mẹ, và từ khi nó trông nom đồng áng thì chẳng có ai lấy trộm lúa ruộng nhà nó như trước nữa. Một hôm, có mấy thư sinh đi qua ruộng nó, dẫm lên lúa, bỗng nghe có tiếng lanh lảnh như giọng con gái bảo rằng “Xin các cậu đi cho có ý tứ kẻo làm nát lúa nhà em”. Lũ thư sinh nhìn vào ruộng lúa, chẳng thấy ai, chỉ thấy một con cóc đang ngồi đó. Tiếng nói dịu ngọt làm cho một anh trong bọn đâm ra có cảm tình. Chàng thư sinh này bấy lâu đọc sách đạo thần tiên, tin tưởng có sự mầu nhiệm ở đời, nên về nhà nói với cha mẹ xin hỏi cóc làm vợ. Ban đầu cha mẹ thư sinh tưởng con mình hóa dại, song anh ta cứ một mực đòi lấy cóc làm vợ cho kỳ được, nếu không thì thề quyết chẳng lấy ai. Người cha bèn kiếm cớ từ khước, bảo chỉ có một mình anh ta là con trai, cưới cóc về có sinh ra được con cái để nối dòng không? Thư sinh tin là sẽ có sự nhiệm màu xảy đến trong ngày cưới cóc về, Tiên Phật sẽ giúp cho cóc thành người có đức hạnh, nhan sắc hơn đời. Thấy con đã nhất quyết như vậy, cha mẹ anh ta cũng đành phải chiều theo, đem trầu cau đi hỏi cóc. Đến ngày cưới, bên nhà trai mang đủ lễ vật, đồ nữ trang, quần áo cho cô dâu như người thường, chàng rể hy vọng Tiên Phật hóa phép cho cóc thành một cô gái xinh tươi như chàng vẫn mộng tưởng. Cả hai họ cũng trông mong như vậy, nhưng đến khi rước dâu, mọi người phải tức cười và xấu hổ vì đưa đón một con cóc nhảy về nhà chồng. Cha mẹ chồng vừa rầu, phiền cho con trai, vừa chua xót vì con dâu cóc, liền cấp ruộng cho đôi lứa đi ở riêng. Thư sinh cũng buồn lòng, cặm cụi học hành, nghiên cứu các khoa học thần bí, hy vọng gỡ rối cho gia đình, nhất là đối với cha mẹ già đang khát khao có cháu bế. Cóc thì siêng năng công việc ở nhà, thức khuya dậy sớm khuyên chồng chăm chỉ bút nghiên. Ngày ngày anh ta đi học về thì đã thấy cơm nước sẵn sàng, nhà cửa sạch sẽ ngăn nắp, mới nghĩ bụng rằng trong lúc vắng mình, chắc vợ trút lốt cóc thành người, chứ một con cóc thì làm sao lo việc nội trợ khéo léo được thế kia? Mấy bận anh ta thử rình, ra đi rồi thình lình trở về bất ngờ, hy vọng bắt gặp vợ là một cô gái xinh đẹp, song chỉ thấy một con cóc sần sùi ở nhà. Anh van nài cóc hóa thành người đẹp cho mình được sung sướng, nhưng cóc vẫn thản nhiên không tỏ vẻ gì cả. Một tối, anh cho cóc hay tin mình được bổ đi dạy ở trường tỉnh, ngỏ thật rằng mình không thể đưa vợ đi theo nếu vợ vẫn giữ lốt cóc. Từ ngày cưới về anh ta đã chịu biết bao lời chế diễu của hàng xóm, bè bạn. Hơn nữa, cha mẹ vẫn thúc dục anh lấy thêm vợ khác để có con nối nghiệp tông đường. Cóc lặng yên nghe chồng than thở, khuyên chồng chớ nên quá buồn phiền, và xin phép hôm sau về nhà thăm cha mẹ. Sáng ngày, cóc đi theo chồng, được một quãng thì nhảy vào một cái bụi bên đường. Thư sinh dừng bước lại thì thấy ở bụi cây đi ra một cô gái xinh đẹp lạ lùng, quá sức ước mong của anh bấy lâu. Anh sung sướng ngẩn ngơ nhìn người vợ đẹp lại gần, say đắm ngắm nghía vợ từ đầu đến chân rồi thiết tha xin vợ từ đây cứ giữ hình người. Biết là vợ đã trút lốt cóc ra trong bụi, anh ta kiếm cớ đi lùi lại sau rồi chạy lẻn đến bụi tìm lốt cóc mà dấu vào mình. Đến nhà, cha mẹ thư sinh mừng rỡ thấy con dâu cóc đã hóa ra người xinh đẹp, dịu dàng. Anh chồng hân hoan thừa lúc mọi người không để ý đến, đem lốt da cóc bỏ vào bếp lửa cho tiêu tan. Hai vợ chồng ở lại nhà cha mẹ cả đôi bên luôn mấy ngày, vui vẻ tiệc tùng liên tiếp rồi mới trở về nhà. Trên đường về vợ kiếm cớ vào bụi cây để tìm lại lốt cũ, không thấy, chồng mới cho hay là mình đã lấy đốt đi rồi. Vợ đành phải giữ nguyên hình người để về với chồng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau đằm thắm vui vẻ, vợ sinh được nhiều con cái, chồng học thi đỗ cao làm nên chức lớn, sống một đời sung sướng. Câu chuyện khuyên chúng ta không nên đánh giá một người qua vẻ bề ngoài. Nàng tiên cóc tuy có vẻ ngoài xấu xí nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, tài năng và siêng năng tần tảo, không thua kém bất cứ cô gái nào. Truyện đề cao vẻ đẹp bên trong của một người, khuyên chúng ta nên lấy vẻ đẹp tâm hồn làm thước đo chứ không phải vẻ đẹp ngoại hình. Thảo Nguyên
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiếm hoi, cầu Trời khấn Phật mãi người vợ mới có thai, nhưng đến khi sinh ra, không phải là người mà lại là một con cóc lớn lên, biết nói tiếng người, song hình thù sần sùi, xấu xí, khiến cha mẹ nó lấy làm buồn phiền, thường than thở với nhau “Vợ chồng mình già cả, hiếm hoi, tưởng sinh được mụn con nối dòng, trông nom đỡ đần mình, ngờ đâu oan gia nghiệp báo lại sinh ra con cóc, còn trông mong gì nữa”!Cóc nghe thấy thế, khuyên cha mẹ đừng lo. Rồi ngày hôm sau cóc nhảy đi coi ruộng cho cha mẹ, và từ khi nó trông nom đồng áng thì chẳng có ai lấy trộm lúa ruộng nhà nó như trước hôm, có mấy thư sinh đi qua ruộng nó, dẫm lên lúa, bỗng nghe có tiếng lanh lảnh như giọng con gái bảo rằng “Xin các cậu đi cho có ý tứ kẻo làm nát lúa nhà em”. Lũ thư sinh nhìn vào ruộng lúa, chẳng thấy ai, chỉ thấy một con cóc đang ngồi đó. Tiếng nói dịu ngọt làm cho một anh trong bọn đâm ra có cảm tình. Chàng thư sinh này bấy lâu đọc sách đạo thần tiên, tin tưởng có sự mầu nhiệm ở đời, nên về nhà nói với cha mẹ xin hỏi cóc làm đầu cha mẹ thư sinh tưởng con mình hóa dại, song anh ta cứ một mực đòi lấy cóc làm vợ cho kỳ được, nếu không thì thề quyết chẳng lấy ai. Người cha bèn kiếm cớ từ khước, bảo chỉ có một mình anh ta là con trai, cưới cóc về có sinh ra được con cái để nối dòng không? Thư sinh tin là sẽ có sự nhiệm màu xảy đến trong ngày cưới cóc về, Tiên Phật sẽ giúp cho cóc thành người có đức hạnh, nhan sắc hơn đời. Thấy con đã nhất quyết như vậy, cha mẹ anh ta cũng đành phải chiều theo, đem trầu cau đi hỏi ngày cưới, bên nhà trai mang đủ lễ vật, đồ nữ trang, quần áo cho cô dâu như người thường, chàng rể hy vọng Tiên Phật hóa phép cho cóc thành một cô gái xinh tươi như chàng vẫn mộng tưởng. Cả hai họ cũng trông mong như vậy, nhưng đến khi rước dâu, mọi người phải tức cười và xấu hổ vì đưa đón một con cóc nhảy về nhà mẹ chồng vừa rầu, phiền cho con trai, vừa chua xót vì con dâu cóc, liền cấp ruộng cho đôi lứa đi ở riêng. Thư sinh cũng buồn lòng, cặm cụi học hành, nghiên cứu các khoa học thần bí, hy vọng gỡ rối cho gia đình, nhất là đối với cha mẹ già đang khát khao có cháu bế. Cóc thì siêng năng công việc ở nhà, thức khuya dậy sớm khuyên chồng chăm chỉ bút ngày anh ta đi học về thì đã thấy cơm nước sẵn sàng, nhà cửa sạch sẽ ngăn nắp, mới nghĩ bụng rằng trong lúc vắng mình, chắc vợ trút lốt cóc thành người, chứ một con cóc thì làm sao lo việc nội trợ khéo léo được thế kia? Mấy bận anh ta thử rình, ra đi rồi thình lình trở về bất ngờ, hy vọng bắt gặp vợ là một cô gái xinh đẹp, song chỉ thấy một con cóc sần sùi ở nhà. Anh van nài cóc hóa thành người đẹp cho mình được sung sướng, nhưng cóc vẫn thản nhiên không tỏ vẻ gì tối, anh cho cóc hay tin mình được bổ đi dạy ở trường tỉnh, ngỏ thật rằng mình không thể đưa vợ đi theo nếu vợ vẫn giữ lốt cóc. Từ ngày cưới về anh ta đã chịu biết bao lời chế diễu của hàng xóm, bè bạn. Hơn nữa, cha mẹ vẫn thúc dục anh lấy thêm vợ khác để có con nối nghiệp tông đường. Cóc lặng yên nghe chồng than thở, khuyên chồng chớ nên quá buồn phiền, và xin phép hôm sau về nhà thăm cha ngày, cóc đi theo chồng, được một quãng thì nhảy vào một cái bụi bên đường. Thư sinh dừng bước lại thì thấy ở bụi cây đi ra một cô gái xinh đẹp lạ lùng, quá sức ước mong của anh bấy lâu. Anh sung sướng ngẩn ngơ nhìn người vợ đẹp lại gần, say đắm ngắm nghía vợ từ đầu đến chân rồi thiết tha xin vợ từ đây cứ giữ hình người. Biết là vợ đã trút lốt cóc ra trong bụi, anh ta kiếm cớ đi lùi lại sau rồi chạy lẻn đến bụi tìm lốt cóc mà dấu vào nhà, cha mẹ thư sinh mừng rỡ thấy con dâu cóc đã hóa ra người xinh đẹp, dịu dàng. Anh chồng hân hoan thừa lúc mọi người không để ý đến, đem lốt da cóc bỏ vào bếp lửa cho tiêu tan. Hai vợ chồng ở lại nhà cha mẹ cả đôi bên luôn mấy ngày, vui vẻ tiệc tùng liên tiếp rồi mới trở về đường về vợ kiếm cớ vào bụi cây để tìm lại lốt cũ, không thấy, chồng mới cho hay là mình đã lấy đốt đi rồi. Vợ đành phải giữ nguyên hình người để về với vợ chồng ăn ở với nhau đằm thắm vui vẻ, vợ sinh được nhiều con cái, chồng học thi đỗ cao làm nên chức lớn, sống một đời sung sướng.
Những câu truyện cổ tích chứa đầy thơ, chất trí tuệ, sự lãng mạn bay bổng nhưng vẫn mang một vẻ đẹp bình dị, rất đời thường. Trong đó, những nàng tiên là nhân vật thường xuyên xuất hiện trong truyện cổ tích, đây là những nhân vật chiếm được sự yêu mến của đông đảo bạn đọc, đặc biệt là trẻ em. Bởi đa phần đây là tuyến nhân vật chính diện, tượng trưng cho công lý, công bằng. Tuyến nhân vật này có năng lực siêu nhiên, có vai trò giúp đỡ những nhân vật chính, hoặc đảm nhận luôn vai trò chính. Dưới đây là những câu chuyện viết về các nàng tiên với nội dung hấp dẫn, cốt truyện mang đến nhiều bài học giá trí về cuộc sống. Nàng tiên Gạo Ngày xưa, có một nhà nghèo. Người cha không may lâm bệnh nặng qua đời. Nhà chỉ còn hai mẹ con. Người mẹ già yếu, không còn đi nương làm rẫy được nữa. Mọi việc trong nhà đều trông cậy vào một mình cô con gái. Cô gái thương mẹ lắm. Buổi sáng cô vào rừng hái quả, ra rẫy gieo hạt, buổi chiều cô xuống suối bắt cá. Suốt ngày cô chăm chỉ làm lụng nuôi mẹ già. Năm ấy hạn hán to. Nước dưới sông suối cạn khô. Lúa trên nương cháy sém, không mọc được. Chim muông, thú rừng khát nước đều bỏ đi phương khác kiếm sống. Người đói chạy ăn nhao nhắc khắp nơi. Nhà nghèo, chỉ còn ít gạo dành nấu cháo cho mẹ, nhưng thấy bà con trong buôn nhiều người không còn nước uống cầm hơi, cô gái nói với mẹ – Chẳng may phải khi đói kém thế này, con thấy không đành tâm! Thôi thì mẹ con mình chia cho mỗi người chút gạo ăn qua ngày. Bà mẹ âu yếm nhìn con, nói – Mẹ cũng nghĩ như con vậy. Con mang gạo cho mọi người nhanh lên! Cô gái vâng lời mẹ, mang hết thóc gạo chia cho mọi nhà. Còn hai mẹ con lại bữa rau bữa cháo qua ngày. Trong buôn bấy giờ có một lão nhà giàu. Nghe nói ngày trước lão cũng nghèo đói lắm. Có lần, lão đi đường, tình cờ gặp một bà cụ nằm ven đường, thều thào run rẩy giơ bát xin ăn. Lão lấy ống cơm ra sẻ cho bà cụ non rửa bát. Hôm ấy, khi trở về nhà, lão vô cùng ngạc nhiên thấy cạnh bếp có một thùng thóc đầy ắp. Câu chuyện khuyên chúng ta không nên ích kỷ chỉ nghĩ đến của cải vật chất, tục ngữ có câu “ Tham thì thâm”, biết vừa đủ bao giờ cũng tốt hơn. Ảnh minh họa. Rồi mùa đến, nương lúa nhà lão vàng rực, trĩu bông. Thóc đổ vào bồ không kịp đếm. Mấy năm liền, nương rẫy nhà lão được mùa, lão trở lên giàu có nhất vùng. Nhưng khi đã thừa mứa của cải, lão bỗng đổi tính đổi nết, sinh ra tham lam, độc ác. Trong nhà lão lúc nào cũng có rất đông người làm thuê. Lão bắt họ làm quần quật suốt ngày nhưng chỉ cho ăn đói mặc rách. Gặp lúc đói kém, người đến xin làm thuê càng đông. Lão mừng thầm trong bụng “Phen này ta vớ bẫm!”. Rồi lão bắt mọi người đi phá thêm rẫy, tra thêm ngô, lúa. Ruộng nương nhà lão ngày một trải rộng mãi ra. Một hôm lão đi thăm rẫy, gặp cô gái đang đào củ mài về nuôi mẹ. Thấy cô gái nhanh nhẹn, chăm chỉ, lão lấy lời ngon ngọt bảo cô “Về làm cho ta thì được ăn no, được cơm nuôi mẹ”. Nhưng rồi lão lật lọng nuốt lời. Mỗi ngày lão chỉ cho cô ăn một bát cơm độn với bao nhiêu ngô sắn. Lão bắt cô làm việc từ sáng sớm tinh mơ cho đến khi mặt trời xuống núi đi ngủ, mắt người không nhìn rõ đường đi nữa mới được nghỉ. Mỗi ngày cô chỉ ăn nửa bát cơm, còn nửa bát gói lá mang về cho mẹ. Bà cụ cũng chỉ ăn mấy miếng, còn lại chia cho đám trẻ con trong bản mỗi đứa một tí. Ban đêm, lão nhà giàu bắt cô gái nằm cạnh những quây thóc để canh chuột cho lão. Một đêm, cô gái vừa chợp mắt, bỗng thoáng nghe có tiếng thở dài, rồi có một giọng nói dịu dàng văng vẳng đến tai cô – Con gái ngoan, con đói lắm phải không! Cô gái khẽ trả lời – Con ngủ thì quên đó mà! Cô lại thoáng nghe thấy tiếng thở dài và giọng nói lúc nãy lại vẳng đến – Ta là tiên Gạo đây. Ta đã nhầm khi giúp cho lão keo bần kia, có của mà không biết thương người. Để xem lão có giàu mãi được không? Khi các lương lúa đã vàng ươm, chỉ còn đợi gặt, lão chủ liền trở mặt, bảo những người làm thuê – Nhà ta hết việc rồi. Các người xem có nơi nào mướn thì tới đó mà làm. Lão nói rồi xua mọi người đi, không trả cho họ xu nào. Cô gái lại vào rừng đào củ mài, hái măng, hái nấm, tần tảo nuôi mẹ. Năm ấy, sau kỳ đại hạn, trời lại mưa thuận gió hòa, khắp nơi đều được mùa. Thế mà nước ở đâu bỗng ào tới, tràn ngập đất đai của lão nhà giàu, bao nhiêu lúa má trên nương dưới ruộng của lão bị lũ cuốn sạch trơn. Đến mùa nương sau, lào đi gọi người làm, nhưng không ai đến. Họ bảo nhau tránh xa lão tham lam, keo kiệt. Một mình lão thì chẳng gieo nổi một hạt thóc xuống đất. Nương rẫy nhà lão khô cằn, trơ khấc dưới nắng gió. Thóc để dành trong cót nhà lão không cánh mà bay hết. Lão trở nên khánh kiệt, không còn nổi một bát cơm ăn. Còn cô gái, một hôm đi hái măng, vừa ra đến cửa rừng thì gặp bà lão ăn mày. Bà cụ run lẩy bẩy vì rét, miệng rên hừ hừ – Tôi… mệt…! … Tôi… đói…! Cô gái vội vàng vơ lá đốt lửa sưởi, nướng măng cho bà cụ ăn. Bà cụ nhai ngon lành hết cái măng, rồi lại kêu khát nước. Cô gái nhanh nhẹn xách ống vầu ra suối lấy nước cho bà uống. Khi cô mang ống nước trở lại thì không thấy bà cụ đâu. Chỗ bà cụ nằm chỉ còn một cái gùi không. Cô gái đành đeo gùi về, định đem trả bà cụ, nhưng không hôm nào cô gặp lại bà nữa. Cô đành cất gùi lên gác bếp. Kỳ lạ thay, từ đó mỗi hôm đi làm về, cô lại thấy trong gùi có đầy thóc. Thì ra đó là những hạt ngọc nuôi sống người mà bà tiên đã ban tặng cho cô. Cô gái mang thóc đến buôn gần bản xa, chia cho mọi người làm giống, khiến nương rẫy nhà nào cũng tốt tươi. Dân trong bản chả bao giờ biết cái đói cái rét nữa. Từ các già làng đến đám trẻ con, ai cũng tấm tắc khen Bà cụ có cô con gái vừa đẹp người lại đẹp nết. Nàng tiên cóc Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiếm hoi, cầu Trời khấn Phật mãi người vợ mới có thai, nhưng đến khi sinh ra, không phải là người mà lại là một con cóc. Con cóc lớn lên, biết nói tiếng người, song hình thù sần sùi, xấu xí, khiến cha mẹ nó lấy làm buồn phiền, thường than thở với nhau “Vợ chồng mình già cả, hiếm hoi, tưởng sinh được mụn con nối dòng, trông nom đỡ đần mình, ngờ đâu oan gia nghiệp báo lại sinh ra cóc, còn trông mong gì nữa”! Cóc nghe thấy thế, khuyên cha mẹ đừng lo. Rồi ngay hôm sau cóc nhảy đi coi ruộng cho cha mẹ, và từ khi nó trông nom đồng áng thì chẳng có ai lấy trộm lúa ruộng nhà nó như trước nữa. Một hôm, có mấy thư sinh đi qua ruộng nó, dẫm lên lúa, bỗng nghe có tiếng lanh lảnh như giọng con gái bảo rằng “Xin các cậu đi cho có ý tứ kẻo làm nát lúa nhà em”. Lũ thư sinh nhìn vào ruộng lúa, chẳng thấy ai, chỉ thấy một con cóc đang ngồi đó. Tiếng nói dịu ngọt làm cho một anh trong bọn đâm ra có cảm tình. Chàng thư sinh này bấy lâu đọc sách đạo thần tiên, tin tưởng có sự mầu nhiệm ở đời, nên về nhà nói với cha mẹ xin hỏi cóc làm vợ. Ban đầu cha mẹ thư sinh tưởng con mình hóa dại, song anh ta cứ một mực đòi lấy cóc làm vợ cho kỳ được, nếu không thì thề quyết chẳng lấy ai. Người cha bèn kiếm cớ từ khước, bảo chỉ có một mình anh ta là con trai, cưới cóc về có sinh ra được con cái để nối dòng không? Thư sinh tin là sẽ có sự nhiệm màu xảy đến trong ngày cưới cóc về, Tiên Phật sẽ giúp cho cóc thành người có đức hạnh, nhan sắc hơn đời. Thấy con đã nhất quyết như vậy, cha mẹ anh ta cũng đành phải chiều theo, đem trầu cau đi hỏi cóc. Câu chuyện bắt đầu khi chàng thư sinh cưới vợ là nàng cóc. Ảnh minh họa. Đến ngày cưới, bên nhà trai mang đủ lễ vật, đồ nữ trang, quần áo cho cô dâu như người thường, chàng rể hy vọng Tiên Phật hóa phép cho cóc thành một cô gái xinh tươi như chàng vẫn mộng tưởng. Cả hai họ cũng trông mong như vậy, nhưng đến khi rước dâu, mọi người phải tức cười và xấu hổ vì đưa đón một con cóc nhảy về nhà chồng. Cha mẹ chồng vừa rầu, phiền cho con trai, vừa chua xót vì con dâu cóc, liền cấp ruộng cho đôi lứa đi ở riêng. Thư sinh cũng buồn lòng, cặm cụi học hành, nghiên cứu các khoa học thần bí, hy vọng gỡ rối cho gia đình, nhất là đối với cha mẹ già đang khát khao có cháu bế. Cóc thì siêng năng công việc ở nhà, thức khuya dậy sớm khuyên chồng chăm chỉ bút nghiên. Ngày ngày anh ta đi học về thì đã thấy cơm nước sẵn sàng, nhà cửa sạch sẽ ngăn nắp, mới nghĩ bụng rằng trong lúc vắng mình, chắc vợ trút lốt cóc thành người, chứ một con cóc thì làm sao lo việc nội trợ khéo léo được thế kia? Mấy bận anh ta thử rình, ra đi rồi thình lình trở về bất ngờ, hy vọng bắt gặp vợ là một cô gái xinh đẹp, song chỉ thấy một con cóc sần sùi ở nhà. Anh van nài cóc hóa thành người đẹp cho mình được sung sướng, nhưng cóc vẫn thản nhiên không tỏ vẻ gì cả. Một tối, anh cho cóc hay tin mình được bổ đi dạy ở trường tỉnh, ngỏ thật rằng mình không thể đưa vợ đi theo nếu vợ vẫn giữ lốt cóc. Từ ngày cưới về anh ta đã chịu biết bao lời chế diễu của hàng xóm, bè bạn. Hơn nữa, cha mẹ vẫn thúc dục anh lấy thêm vợ khác để có con nối nghiệp tông đường. Cóc lặng yên nghe chồng than thở, khuyên chồng chớ nên quá buồn phiền, và xin phép hôm sau về nhà thăm cha mẹ. Sáng ngày, cóc đi theo chồng, được một quãng thì nhảy vào một cái bụi bên đường. Thư sinh dừng bước lại thì thấy ở bụi cây đi ra một cô gái xinh đẹp lạ lùng, quá sức ước mong của anh bấy lâu. Anh sung sướng ngẩn ngơ nhìn người vợ đẹp lại gần, say đắm ngắm nghía vợ từ đầu đến chân rồi thiết tha xin vợ từ đây cứ giữ hình người. Biết là vợ đã trút lốt cóc ra trong bụi, anh ta kiếm cớ đi lùi lại sau rồi chạy lẻn đến bụi tìm lốt cóc mà dấu vào mình. Đến nhà, cha mẹ thư sinh mừng rỡ thấy con dâu cóc đã hóa ra người xinh đẹp, dịu dàng. Anh chồng hân hoan thừa lúc mọi người không để ý đến, đem lốt da cóc bỏ vào bếp lửa cho tiêu tan. Hai vợ chồng ở lại nhà cha mẹ cả đôi bên luôn mấy ngày, vui vẻ tiệc tùng liên tiếp rồi mới trở về nhà. Trên đường về vợ kiếm cớ vào bụi cây để tìm lại lốt cũ, không thấy, chồng mới cho hay là mình đã lấy đốt đi rồi. Vợ đành phải giữ nguyên hình người để về với chồng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau đằm thắm vui vẻ, vợ sinh được nhiều con cái, chồng học thi đỗ cao làm nên chức lớn, sống một đời sung sướng. Nàng tiên trong ngà voi Ngày xưa, có một nhà kia sinh được ba người con, hai trai và một gái. Rôn là con trai lớn, làm ăn rất siêng năng, săn bắn giỏi. Ngày nào anh cũng mang về hai ba chục con sóc, con chuột, con rắn mối. Thấy Rôn có tài, bọn nhà giàu ghen tị, tìm cách hãm hại. Chúng bảo rằng Rôn bắn hết chim muông trên rừng, bắn hết chuột, hết sóc sẽ bắn đến trâu bò của dân làng. Bọn chúng lại dọa cha mẹ Rôn rằng, lúc nào Rôn bắn chết trâu bò của làng thì làng sẽ giết chết cả nhà. Cha Rôn lo sợ, nghĩ rằng nếu để thế này, có ngày nguy mất. Ông bèn nghĩ cách đem con bỏ vào rừng sâu, để cả nhà khỏi vạ. Hôm sau, người cha để đứa con trai thứ hai là Rắc ở nhà, dẫn Rôn và đứa con gái đi. Ông bảo với hai con là đi săn con chuột, con sóc. Vì thương con, nên ông ta mang đi đủ thứ gạo, muối, nồi, bát,… Đi mấy ngày đường, cha con đến một đỉnh núi cao ngất, ông che lều nghỉ tạm. Đêm đến, đợi cho hai con ngủ say rồi, ông bỏ con mà về, vừa đi vừa khóc. Lúc ngủ dậy, hai anh em cùng than khóc, kêu cha suốt một ngày ròng. Lúc mặt trời đã lặn, Rôn bảo em – Thôi đừng khóc nữa, có gạo, có muối rồi, bây giờ chặt củi nấu cơm mà ăn! Anh em sinh sống như vậy suốt mười ngày trời. Đến ngày thứ mười, hột gạo hết, anh em hái đọt móc mà ăn. Ăn đọt móc mấy ngày lại ăn đọt mây, ăn củ mài. Đang ngồi nhai mấy đọt mây, đứa em gái trông thấy dưới bụi cây có đàn kiến đang tha thóc. Nó nhặt thóc của kiến được một ô định lấy đá giã thóc. Người anh bảo – Một ô thóc thì ăn được một bữa là cùng! Ăn làm gì, đem thóc ấy gieo vào rẫy thành lúa sẽ được nhiều thóc. Thế là anh em dành ô thóc kia làm giống và định hôm sau sang phía mặt trời mọc phát rẫy gieo lúa. Đêm hôm ấy, đứa em nằm mộng thấy thần Núi không cho phát rẫy phía mặt trời mọc. Anh em lại bàn với nhau sẽ làm rẫy phía mặt trời lặn. Đêm thứ hai, đứa em gái lại mộng thấy thần Núi cũng không bằng lòng. Anh em bảo nhau – Cha đem bỏ chúng ta trong rừng. Thần Núi không cho phát rẫy làm nương. Chắc anh em ta phải chết thôi! Đêm thứ bam đứa em gái lại được thần Núi bảo cho rằng đi tìm nơi nào có tảng đá lớn, bằng phẳng thì gieo lúa trên đó, lúa sẽ mọc tốt. Nàng tiên trong ngà voi là truyện cổ tích của người Cơ Tu Việt Nam, kể về hai anh em đáng thương, bị bỏ trong rừng sâu được nàng tiên xinh đẹp giúp đỡ. Ảnh minh họa. Theo lời dặn của thần, hai anh em tìm mãi mấy ngày liền thì gặp một nơi đá phẳng lì, đẹp lắm. Anh em gánh đất đắp thật dày trên đá rồi gieo lúa. Mấy hôm sau, lúa lên tươi tốt. Một tháng sau, lúa trổ cành nào cũng trĩu hạt. Nhưng không may cho anh em Rôn, lúa vừa chín thì đứa em gái được thần báo mộng, lúa bị voi ăn rồi. Tỉnh dậy, vội chạy ra xem thì quả thật, một con voi to lớn phá hết lúa vàng. Anh em rủ nhau đuổi voi đi. Voi đứng lại, bảo – Đừng đuổi voi đi! Muốn gì voi sẽ cho. Rôn bảo – Chẳng muốn gì cả! Chẳng xin gì cả! Bao nhiêu lúa tốt voi phá sạch rồi! Anh em tôi chỉ có chết đói thôi! Voi trả lời – Không lo! Nói xong, voi rút một chiếc ngà đưa cho Rôn. – Này! Chiếc ngà này sẽ làm ra lúa đấy! Khiêng về đi! Dốc hết sức lực, mất một ngày anh em mới đưa ngà về đến lều. Anh em Rôn lại ra rẫy nhặt thóc rụng. Trưa về anh em đã thấy ở nhà có sẵn một mâm cơm, thức ăn ngon lành, hơi bốc thơm phức! Anh em lấy làm lạ và nghi rằng ăn vào sẽ bị độc nên người anh không cho em ăn. Người anh chỉ ăn thử một hạt. Cả ngày đó, chẳng thấy mệt mỏi gì, người anh vừa mừng nhưng lại vừa lo. Cứ như thế, ngày hôm sau lại cũng có cơm canh ngon lành. Muốn biết tay ai đã dọn nên cơm canh như thế, họ bàn với nhau – Hôm nay mình sẽ đi thật xa để săn con chim, con sóc, con chuột. Bàn như vậy, nhưng anh em Rôn chỉ ra ngồi sau nhà, để xem thử ai dọn cơm. Bữa ấy, lúc mặt trời đã lên rồi, anh em Rôn nhìn vào khe cửa của vách thì thấy một nàng tiên trong ngà voi xinh đẹp tuyệt trần bước ra… Anh em Rôn nhảy vào nhà, ôm chầm lấy cô. Cô vội kêu – Đừng bắt tôi! Đừng bắt tôi! Anh em Rôn chẳng chịu thả cô. Người anh xé khố của mình cho cô mặc. Nàng tiên bảo anh em Rôn đi chặt mây song về, và dặn – Khi kéo mấy song về, dọc đường có nghe như tiếng ngựa trâu chay theo thì đừng ngoái cổ lại nhé. Theo lời dặn của cô, anh em Rôn kéo mây song đến nhà thì cũng kéo luôn về một bầy trâu, bò nhiều vô kể. Từ đó Rôn lấy nàng tiên. Nàng tiên cũng hóa thêm một người con trai đẹp đẽ phi thường làm chồng cô em gái. Sau đó, cô biến túp lều thành nhà cao cửa lớn. Hai đôi vợ chồng sống với nhau rất hòa thuận. Dân ở đâu cũng kéo đến ở vùng này, làm cho đỉnh núi càng thêm vui. Một hôm, cha con Rắc đi săn trong rừng. Con chó săn chạy lên vùng nhà Rôn. Dân làng không biết chó của ai, định bắt làm thịt. Rôn không đồng ý cho dân làng thịt con chó, vì thấy con chó này giống con chó của cha mình. Rôn lại đem thịt, cơm, rượu cột vào bụng chó và thả cho về. Chó chạy đi chạy về mấy lần như vậy, mỗi ngày đem thêm gạo, thêm rượu cho cha con Rắc. Ông ta lấy một gói hạt mè buộc dưới bụng chó. Lúc chó chạy thì hạt mè rơi xuống đất. Ba tháng sau, mè mọc lên. Cha con Rắc theo dấu cây mè để tìm xem ai là người đã cho mình cơm rượu nhiều như vậy. Đến nơi, cha con Rắc gặp lại anh em Rôn rất lấy làm lạ. Vì đã mấy năm rồi, ông ta tưởng Rôn đã chết, không ngờ Rôn cnf sống, lại có vợ đẹp, có nhà cửa lộng lẫy. Vợ chồng Rôn và hai vợ chồng cô em đối đãi với cha vè em Rắc rất tử tế. Kể lại chuyện cũ, cha con Rôn, Rắc rất căm tức bọn nhà giàu tham ác ở làng. Họ gọi dân làng kéo về làng cũ, bắt hết bọn chúng. Từ đó, dân hai làng đi lại với nhau, làm ăn vui vẻ. Bài học hay từ những câu chuyện về các nàng tiên Mỗi câu chuyện cổ tích là sự kết tinh giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là lòng nhân ái và bản lĩnh kiên cường, hiện thực và ước mơ, niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau. Đồng thời lưu truyền những bài học quý của ông cha để lại cho thế hệ sau. Hầu hết các câu chuyện đều thể hiện quan niệm sống của ông cha ta thông qua việc xây dựng các hình tượng nhân vật với các mối quan hệ của nó trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Truyện về các nàng tiên đề cao vẻ đẹp bên trong của một người, khuyên chúng ta nên lấy vẻ đẹp tâm hồn làm thước đo chứ không phải vẻ đẹp ngoại hình. Còn khuyên chúng ta không nên ích kỷ chỉ nghĩ đến của cải vật chất, tục ngữ có câu “ Tham thì thâm”, biết vừa đủ bao giờ cũng tốt hơn. Truyện về các nàng tiên đề cao vẻ đẹp bên trong của một người, khuyên chúng ta nên lấy vẻ đẹp tâm hồn làm thước đo chứ không phải vẻ đẹp ngoại hình.
Nội dung truyện cổ tích nàng tiên cóc Ngày xưa, có một nhà làm ruộng hiếm hoi, chỉ sinh được một gái thì lại là…Cóc. Hai vợ chồng rất lấy làm bồn tủi, nhưng biết sao trót đẻ phải nuôi, chẳng lẽ đem con vứt ra đầu đường xó bụi. Một hôm, bắt đầu mùa gặt, người vợ nhân đi thăm ruộng về bèn lên tiếng phàn nàn ngay từ ngoài ngõ – Không biết đứa chết tiệt nào cứ rứt bừa cả lúa ra! Ruộng nhà mình sát ngay đường cái, mình lại neo người, nghĩ tức quá! Cóc nghe thấy lời mẹ than, bèn thưa rằng – Cha mẹ để con đi canh lúa cho! – Con là Cóc, dù thấy người ta rứt lúa đi nữa thì con làm gì được? – Con thấy ai rứt lúa, con cứ ở trong ruộng kêu lên là tự khắc người ta phải thôi. Cóc phân trần kể có lý, vả lại hai vợ chồng bác nông phu cũng không còn biết tính cách nào khác được, nên phải nhận lời. Trong số những người hay qua lại bên ruộng nhà mình, Cóc để ý đến một anh học trò tẩn mẩn nọ. Thấy anh ta nghịch ngợm, Cóc không mắng, mà chỉ hát rằng – Anh chàng ơi! Hỡi anh chàngSao anh rứt hại lùa vàng nhà em! Giọng nói ngân nga hay quá! Anh học trò lắng nghe và nghĩ đến một gương mặt đẹp như tiên nữ. Thế rồi, hôm sau và hôm sau nữa, anh học trò càng rứt nhiều lúa hơn, không phải để chỉ cắn chắt, mà chỉ cốt được nghe giọng hát tuyệt vời ấy. Ảnh minh họa. Cóc hiểu ý anh học trò trẻ tuổi nên đánh bạo – Hỡi anh đi đường cái quan Dừng chân đứng lại em than vài lời Buồng xuân lần lữa hôm mai, Đầu xanh mấy độ da mồi tóc sương! Anh học trò nhìn quanh, thấy vắng liền cũng hát – Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Cóc trả lời – Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. – À, nếu thế, ta vào vậy! – Anh học trò vừa nghĩ vừa lần xuống ruộng, nhưng người đâu chẳng thấy, anh ta chỉ vẳng nghe tiếng nói rất gần – Em thấy chàng là hiền sĩ. Em muốn kết duyên cùng chàng, chẳng hay chàng có bằng lòng không? Thực là một sự kỳ dị khiến anh học trò ngơ ngẩn. – Kìa sao chàng bỡ ngỡ thế. Em đây, em đứng trước mắt chàng đây thôi! Trước mặt anh học trò, chỉ có một con Cóc. Tuy vậy, anh học trò ta cũng không hoảng hốt quá đáng, vì thủa bấy giờ, Tiên Phật xuống thử người trần như thế là thường. Anh ta chỉ ngán ngẩm đáp – Nàng là Cóc, tôi lấy nàng sao được! Cóc vội cam đoan – Em tuy là Cóc, nhưng về đường tề gia nội trợ, em có thể giúp chàng nhiều lắm, chàng đừng lo. Anh học trò bụng bảo dạ Không lẽ Cóc mà biết nói! Hay là ta cứ thử về kể với mẹ xem sao. Về đến nhà, chàng học trò thuật rõ đầu đuôi việc xảy ra cho mẹ nghe. Bà lão thấy kì lạ vô cùng, cũng nghĩ ngay đến chuyện Tiên lấy chồng, Phật đi thử. Và vì con trai quả quyết chỉ muốn được kết duyên cùng nàng Cóc, nên bà đành gật đầu chấp nhận. Vợ chồng người làm ruộng bắt ngay lấy cơ hội để thở than và trách móc số phận – Ấy, bà có lòng thương hỏi đến làm chúng tôi thêm xấu hổ Ai lại vợ chồng hiếm hoi, cầu khấn mãi mới được mình cháu thì, đấy bà xem người chẳng ra người, vật chẳng ra vật! Cóc ngồi trong buồng kín, nghe thấy cha mẹ than thế, liền thưa vọng ra rằng – Người ta đã có lòng đến hỏi, mẹ cha cứ nhận thời đừng ngại. Con sẽ không làm cha mẹ phải phiền lòng về chuyện này đâu ạ! Nghe thấy ý định quả quyết và giọng nói sang sảng như tiếng chuông vàng khiến bà mẹ anh học trò càng tin chắc ở một sự phi thường. Và khi bà đứng dậy ra về, hôn lễ của nàng Cóc và anh học trò đã ấn định. Ngày cưới, hai họ đưa đón tưng bừng. Hàng xóm nghe chuyện lạ, kéo nhau đến xem, đông không khác gì đi xem hội. Nàng Cóc điềm nhiên, nhảy theo dám rước dâu. Khi về tới nhà chồng, nàng chui ngay vào buồng kín. Từ đấy, cứ hễ mẹ chồng đi chợ buôn bán, chồng nghiên bút đến trường, Cóc lại trút lốt ra, thu xếp quét dọn cửa nhà, làm cơm dẻo canh ngọt để sẵn sàng đấy. Bà lão và con trai ngày nào cũng ăn uống thơm ngon, thêm thấy cửa nhà ngăn nắp sạch sẽ, lấy làm thoả mãn không biết chừng nào. Ảnh minh họa. Anh học trò chỉ còn phải khổ sở mỗi khi thò mặt đến trường việc anh lấy vợ Cóc đã thành một cớ để các bạn đồng môn nhạo báng. Họ mỉa mai, họ khinh miệt anh ta, bảo anh làm như đàn bà trong thiên hạ không còn ai nữa! Một hôm, họ lập tâm ác nghiệt đến bàn nhau xin với thầy đồ rằng – Nhân ngày sinh nhật của thầy, anh em chúng con muốn đặt ra một cuộc thi cỗ. Thầy sẽ chấm nhất vào cỗ nào thầy cho là khéo nhất. Thầy đồ ưng thuận. Anh học trò trở về nhà buồn bã, lo đến nỗi quên cả ăn, bỏ cả học, chỉ biết nằm mà thở dài. Cóc gạn hỏi chồng – Có việc gì mà khiến chàng ra vẻ băn khoăn thế? Chàng cứ yên tâm ăn uống và đọc sách đi. Cho dù là việc gì đi nữa thì cũng đừng ngại, sẽ có em lo liệu chu toàn hết cả. Cóc gặng hỏi đến hai ba bận, anh chồng mới ngại ngùng nói thật. – Từ khi tôi lấy nàng, tôi bị chúng bạn chê bai tệ quá! Bây giờ họ lại xin với thầy đồ cho thi cỗ, chừng để mang tôi ra làm một trò cười ác nghiệt… – Ồ, tưởng gì! Nếu họ muốn thi cỗ thì rồi họ sẽ được xem cỗ thiếp nấu! Thôi, chàng dậy xơi cơm đi, rồi cứ đến trường học như thường. Lúc nào họ mang cỗ lại đủ thì chàng về mà lấy. Tuy chưa dám tin hẳn vào lời của vợ, anh học trò cũng không biết làm cách nào hơn là cứ ôm nghiên bút đến trường. Ngày hôm sau, mấy chục mâm cỗ nghênh ngang vào cổng nhà ông đồ. Mâm của anh học trò lấy vợ Cóc bị chúng bạn anh lừa đặt xuống cuối cùng. Nhưng, lúc nếm đến những món thơm ngon và lạ miệng bày trong mâm này, thầy đồ khen tấm tắc mãi, rồi phê cho được nhất. Đang tự đắc và nhơn nhơn thu xếp một trận cười, lũ học trò người nào người nấy mặt mũi tưng hửng như mèo bị cắt tai vậy. Chúng thẹn quá hoá tức, bàn với nhau – Nhất định thua keo này bày keo khác, chứ lại chịu nó à? Rồi chúng lại xin với thầy đồ cho thi may quần áo Hễ bộ nào thầy mặc vừa vặn và đẹp nhất thì sẽ đoạt giải. Anh học trò lấy vợ Cóc lại phải một phen phải lo lắng. Cóc lại phải kiếm lời an ủi chồng – Chàng ơi, cơm dẻo canh ngọt chàng hãy xơi đi, còn công việc gì đã có thiếp lo liệu. Nàng tiên Cóc chờ khi chồng đến trường học, liền hoá phép đi mua vóc nhiễu và bí mật đến đo người thầy nên lúc áo may xong đem thi, lại được thầy chấm nhất. Còn của các anh kia thì hoặc dài quá, hoặc ngắn quá, hoặc rộng quá, hoặc chật quá, đều thua cuộc. Chúng càng trở nên cay cú, vội vàng cùng nhau bàn kế – Lần này, ta xin phép thầy cho thi xem vợ anh nào đẹp nhất. Vợ chúng ta xấu tốt cũng là người; vợ nó là Cóc lẽ nào không chịu thua, chịu nhục! Thật đúng là Bể sâu còn có kẻ dò Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng! Anh học trò lấy vợ Cóc nghe tin, cảm thấy tê tái trong lòng. Phải cố gắng lắm mới bước về được đến nhà. Thấy chồng nằm dài trên giường, chẳng nói chẳng rằng, Cóc lại gạn hỏi – Hai lần thi cũng đã được nhất, chàng sao còn ưu phiền đến thế? Câu hỏi dịu dàng của vợ càng làm anh thổn thức. Anh kể lể – Đã đành hai bận trước mình đều thắng cuộc, nhưng bây giờ họ lại giở trò thi sắc đẹp của những người vợ với nhau, thì đúng là cố ý ép ta mất mặt còn gì! Muốn bắt nàng đến trường để thi… Bọn chúng thật là ác độc! Hai mắt Nàng tiên Cóc sáng lên một cách ranh mãnh – Chàng đừng ngại, em không để chàng bị nhục với những người đồng môn kia đâu! Đã hai lần được vợ giữ trọn lời hứa, anh học trò cũng hơi vững dạ. Đến ngày thi, vợ các sĩ tử đua nhau trang điểm để phô mầu thanh lịch. Họ vui cười ầm ĩ, vì dù sao mọi người đều đã nắm chắc phần thắng Cóc một cách dễ dàng. Trong khi ấy, anh học trò kia ngại ngùng dẫn vợ đến trường. Anh ta đi trước, chị vợ lạch bạch nhảy theo sau. Cái cảnh tượng ấy làm cho mọi người phải cười ôm bụng và anh chồng cứ phải cúi gằm mặt xuống, thân thể nóng bừng như lên cơn sốt. Có lần anh ta đã nói phẫn – Thế này, thà ở nhà quách! Đi lắm chỉ tổ mua cười cho thiên hạ! Cóc cười rất giòn – Làm gì mà quýnh lên thế! Hãy cứ cho đến nhà thầy đồ đã nào. Tới cổng trường, Cóc thấy chồng rụt rè không dám bước, liền giục – Chàng vào trước đi, em vào ngay. Anh ta ngờ vực nhưng cũng giả làm theo lời vợ. Kỳ thực anh ta nấp ở xó cổng để rình xem vợ làm ăn ra sao thì thấy Cóc nhảy vào bụi rậm. Một lát sau, từ đám lau sậy, một nàng tiên yểu điệu bước ra, làm anh chàng lóa mắt! Giải nhất lại lần nữa về vợ chồng nhà Cóc. Và lần này, trước vẻ đẹp nảy hào quang của nàng Cóc, bọn đồng môn thành thực và vui vẻ chịu thua. Để tỏ ra không còn chút thù oán, ganh tị gì nữa, chúng đồng thanh bầu anh chồng chị Cóc làm trưởng tràng. Bài học hay từ câu chuyện cổ tích Câu chuyện về một anh học trò lấy được nàng tiên xinh đẹp nhưng trước đây ẩn mình trong lốt cóc xấu xí, và truyền đạt bài học hay trong cuộc sống.
truyen co tich nang tien coc