Trên thị trường hiện nay có nhiều mẫu bàn thờ gỗ đẹp được làm từ chất liệu gỗ tự nhiên và gia công tỉ mỉ. Vì vậy gia chủ sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn để lựa chọn được mẫu bàn thờ phù hợp với không gian thờ cúng của gia đình sao cho vừa đảm bảo chuẩn phong thủy nhưng vẫn phải mang đậm
Và nhà thơ Bằng Việt đã góp phần làm phong phú thêm chủ đề bằng tình cảm bà cháu sâu đậm trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ ra đời năm 1963, khi ấy nhà thơ đang học tập và sinh sống ở nước bạn Liên Xô. Trong nước, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân
Cô hàng xóm – Nguyễn Bính. Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi. Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng. Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng…. Có con bướm trắng thường sang bên này. Bướm ơi! Bướm hãy vào đây! Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi…. Khi hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.
[TỔNG HỢP NHỮNG CÁI NẾT NGỘ NGHĨNH CỦA RÈ CON] •CHAPTER 1️⃣ - Lũ rè và đầu tàu fmc đã có lần đổ vỏ cho Jisoo và fan cô Jisoo là mua follow khi lượt theo dõi trên IG của Jisoo tăng hơn cô R 100k follow vào 21/6/2021 - Đổ vỏ cho fan Jisoo hắt nước bẩn lên Rosé với bằng chứng là những tài khoản nặc danh trên pan
Cô hàng xóm - Nguyễn Bính Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn Hai người sống giữa cô đơn, Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa. Tầm tầm giời cứ đổ mưa, Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm. Cô đơn buồn lại thêm buồn, Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi? Hôm nay mưa đã tạnh rồi! Tơ không hong nữa, bướm lười không sang. Bên hiên vẫn vắng bóng nàng, Rưng
ajWt4. 23/10/2022 Bài thơ được phổ nhạc, Bài thơ sách giáo khoa 191 Views Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn. Hai người sống giữa cô đơn, Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi. Giá đừng có giậu mùng tơi, Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng. Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng… Có con bướm trắng thường sang bên này. Bướm ơi, bướm hãy vào đây! Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi… Chả bao giờ thấy nàng cười, Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên. Mắt nàng đăm đắm trông lên… Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi! Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi, Tôi buồn tự hỏi Hay tôi yêu nàng? – Không, từ ân ái nhỡ nhàng, Tình tôi than lạnh gio tàn làm sao! Tơ hong nàng chả cất vào, Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang. Mấy hôm nay chẳng thấy nàng. Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong. Cái gì như thể nhớ mong? Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng! Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng, Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa. Tầm tầm giời cứ đổ mưa, Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm! Cô đơn buồn lại thêm buồn… Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi? Hôm nay mưa đã tạnh rồi! Tơ không hong nữa, bướm lười không sang. Bên hiên vẫn vắng bóng nàng, Rưng rưng… tôi gục xuống bàn rưng rưng… Nhớ con bướm trắng lạ lùng! Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng. Hỡi ơi! Bướm trắng tơ vàng! Mau về mà chịu tang nàng đi thôi! Đêm qua nàng đã chết rồi, Nghẹn ngào tôi khóc… Quả tôi yêu nàng. Hồn trinh còn ở trần gian? Nhập vào bướm trắng mà sang bên này! Check Also Vịnh khoa thi Hương – Trần Tế Xương Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của nhà thơ Trần Tế Xương ghi lại cảnh …
Nguyễn Bính sinh vào năm 1918 với tên thật là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội nay là xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Theo tài liệu được Hội Nhà Văn ở Hà Nội công bố về tiểu sử của ông thuở nhỏ Nguyễn Bính không được đi học ở nhà trường mà chỉ được học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và đồng thời cũng được người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm. Ông mồ côi mẹ rất sớm, cha đi bước nữa, gia đình túng quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải theo anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sinh sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà. Năm 13 tuổi ông đã bắt đầu làm thơ và năm 1937 được giải khuyến khích về thơ của nhóm Tự lực văn đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi. Những năm đầu thập niên 1940, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào miền Nam. Lúc này ông đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết. Năm 1943, Nguyễn Bính lại đi vào miền Nam lần thứ ba và đã gặp Đông Hồ, Kiên Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang. Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ độ về đây… Chính vì vậy ông được gọi là “thi sĩ giang hồ”. Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Nam. Đến năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính tập kết về Bắc năm 1955 và được bố trí phục vụ trong Hội Nhà Văn ở Hà Nội một thời gian. Năm 1956, ông được giao nhiệm vụ phụ trách tờ Trăm Hoa nguyên văn trong tài liệu của Hội Nhà Văn và tham gia vào phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Đến năm 1958, ông bị buộc chuyển về tỉnh nhà Nam Định, làm việc tại Ty Văn hoá Nam Định cho đến khi mất. Nguyễn Bính mất sáng ngày 20 tháng 1 năm 1966, tức ngày 29 tháng chạp âm lịch xuân Ất Tị, tại nhà một người bạn ở huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam. Khi đó không một người vợ con ruột thịt nào của ông có mặt. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000. Nhà cô thôn nữ July10 Sang năm ra ở riêng rồiVợ tôi dệt lụa, tôi ngồi làm thơLụa may áo, bán còn thừaTôi đem thay giấy viết thơ chung tìnhGiăng câu này dưới mái gianh“Nhà cô thôn nữ, vợ anh học trò”… Thư cho chị January7 […]Làm sao em sống như thừaCố đem men rượu tẩm vừa lòng đauKể từ hai đứa thôi nhauEm thường chả có đêm nào không saySao em đơn chiếc thế này?Sao em lại khóc như ngày chị đi…?Ở đây còn có vui gì!Vườn dâu xa lắm! Lối về chị xaCon đường sang xóm Trữ LaCách một ngày ngựa, cách ba ngày đò[…] Lỡ duyên November19 […]Nàng đi còn có bao giờNgoảnh trông lại kẻ se tơ lỡ làngPháo ơi, đừng nổ rộn ràngĐừng phô sắc thắm, đừng làm ta say […] Anh về quê cũ November17 […]Trăng đầy ngõ, gió đầy thônAnh về quê cũ có buồn không anh? Ái khanh hành trích October9 […]Em là con Tướng trong tam cúcAnh là quân Xe trong bàn cờVí chăng có một nước Tình áiEm là Hoàng Hậu, anh làm Vua. Bắt gặp mùa thu July29 […]Cha già ngừng chén biếng ngâm thơĐưa mắt nhìn theo hút dặm mờXe ngựa người về tung cát bụiCon mình không một lá thư đưaNghìn lạy cha già lượng thứ choTrót thân con vướng nợ giang hồLòng son bán rẻ vào sương gióLãi được gì đâu? Đã mấy thu![…] Trời trở gió September27 [..]Tôi cầu trời mất mùa đôngCố nhân xa lắm, áo bông rách rồi…. Một dòng sông lạnh January30 […]Lạy giời đừng sáng đêm nayĐò quên cập bến, tôi say suốt Quân lên ngựa mất rồi… Nhặt nắng January24 […]Chòm hoa dâm bụt bên bờ giếng,Nở đỏ như muôn mảnh lụa dối lòng tôi nên chẳng dámNhận là mình đã bắt đầu yêu.[…] Thoi tơ October31 […]Thơ làm xong anh anh em lắng để lòng thổn thức,Theo vần âu yếm đẹp theo ngày tháng,Đi êm đềm như nào trên khung cửi,Qua lại chiếc thoi tơ…
Đề bài Bình giảng bài thơ Xuân về của Nguyễn Bính. Lời giải chi tiết Đã thấy xuân về với gió đông, Với trên màu má gái chưa chồng. Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong. Từng đàn con trẻ chạy xum xoe, Mưa tạnh, giời quang, nắng mới hoe. Lá nõn, nhành non, ai tráng bạcGió về từng trận, gió bay đi... Thong thả dân gian nghỉ việc đồng, Lúa thì con gái mượt như nhung Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng, Ngào ngạt hương bay, bướm lượn vòng. Trên đường cát mịn, một đôi cô, Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội trúc dắt bà già tóc bạc, Tay lần tràng hạt miệng nam mô1937 Tâm hồn tôi Thi sĩ Nguyễn Bính xuất hiện prong phong trào "Thơ mới" trước năm 1945. Phong cảnh đồng quê, hình ảnh cô thôn nữ, bến đò ngang, phiên chợ Tết... được Nguyễn Bính nói lên một cách bình dị, thân mật đáng yêu. "Tương tư", "Chợ Tết", "Mưa xuân", "Xuân về",... là những bài thơ hay của ông được nhiều người yêu thích. Bài thơ "Xuân về" là một bức tranh xuân có bốn cảnh xinh xắn, thân mật về đồng quê. làng quê Việt Nam hơn 60 năm về trước. Con người và cảnh sắc nông thôn đã được thi vị hóa qua một hồn thơ lãng mạn tài hoa. Cảnh xuân thứ nhất nói về cô thôn nữ khi gió đông gió xuân thổi về. Gió xuân mang hơi ấm và khí xuân làm hồng lên đôi má "gái chưa chồng", tuổi xuân mơn mởn. Cô láng giềng, cô hàng xóm của nhà thơ bâng khuâng nhìn trời với “đôi mắt trong" như đang ước hẹn, đợi chờ ai... Bức tranh xuân trẻ trung, tình tứ được chấm phá qua hai hình ảnh "màu má gái chưa chồng" và "đôi mắt trong" của cô hàng xóm đang "ngước mắt" nhìn trời xuân"Đã thấy xuân về với gió đông, Với trên màu má gái chưa chồng. Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong " Cảnh xuân thứ hai vừa đẹp, vừa sống động, hồn nhiên và tươi xinh. Gió xuân thổi về từng trận rồi "gió bay đi", gợi lên sự phơi phới. Sau những tháng ngày mưa xuân, mưa bụi trắng trời, nay mưa đã tạnh, bầu trời rất đẹp, một không gian ấm áp "giời quang, nắng mới hoe". Nắng mới là nắng đầu xuân "nắng mới hoe" là nắng hồng nhạt, cỏ cây đâm chồi nảy lộc "Lá nõn, nhành non, ai tráng bạc?" "Lá nõn" là những mầm lá, những lá non màu xanh mượt, "nhành non" là những cành tơ mới nẩy lộc có nhiều lá nõn màu xanh như ngọc. Nhà thơ sung sướng ngạc nhiên nhìn “lá nõn, nhành non" rồi thốt lên câu hỏi "ai tráng bạc". Lá xuân mỡ màng, non tơ sáng ngời lên lấp lánh. Các chữ "nõn", "non", 'bạc?", đã gợi lên sắc xuân và sức xuân kì diệu. Thi sĩ Xuân Diệu cũng đã nói hoa, lá, cành mùa xuân, cũng nói đến "cành tơ" đầy gợi cảm "Của ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất... " "Vội vàng" Cảnh xuân càng trở nên rộn ràng, vui tươi và hồn nhiên khi xuất hiện "Từng đàn con trẻ chạy xum xoe". Các em nô đùa, các em đón nắng mới, các em theo bà, theo chị đi trẩy hội mùa xuân. Cảnh xuân càng trở nên ý vị đậm đà. Nét xuân đẹp thứ ba trong bức tranh xuân của Nguyễn Bính mở ra một không gian nghệ thuật rộng lớn gợi lên cái hồn quê buổi xuân về. Giêng hai là thời gian nông nhàn, bà con dân cày "nghỉ việc đồng", ai nấy đều tíu tít trong lễ hội mùa xuân. Cánh đồng làng bát ngát "lúa con gái mượt như nhung". Một so sánh rất hay, rất gợi cảm làm hiện lên những cánh đồng quê lúa xanh thẫm, biển lúa êm đềm "mượt như nhung". Vườn tược, xóm thôn nở trắng màu hoa cam, hoa bưởi "ngào ngạt hương bay". Mùi thơm nồng nàn, quấn quít "bướm vẽ vòng". Cảnh bướm, hoa trong vườn xuân thật trữ tình nên thơ"Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng,Ngào ngạt hương bay, bướm lượn vọng. " Chữ "đầy", chữ "ngào ngạt" là hai nét vẽ gợi lên cái thần, cái hồn của vườn xuân chốn quê. Nguyễn Bính đã đem cái tình yêu mùa xuân, yêu làng mạc đồng quê để viết nên những câu thơ tuyệt bút về hương hoa, về bướm hoa trong mùa xuân. Một nét đẹp nữa trong bức tranh "Xuân về" là cảnh đi trẩy hội. "Một đôi cô" duyên dáng, tươi xinh trong bộ đồ dân tộc "yếm đỏ khăn thâm" đi trẩy hội chùa. Các cụ già, bà già "tóc bạc" lưng còng, tay chống gậy trúc, vừa đi vừa lần tràng hạt, miệng lầm rầm tụng nam mô. Có cái phơi phới, say mê của cô gái quê. Có cái phúc hậu, thánh thiện của tuổi già. Cảnh trẩy hội xuân vừa tưng bừng náo nhiệt, vừa dân dã hồn hậu đáng yêu. Ta cảm thấy như mình đang được sống lại lễ hội mùa xuân của làng quê hơn trăm năm về trước "Trên đường cát mịn, một đôi cô, Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội trúc dắt bà già tóc bạc, Tay lần tràng hạt miệng nam mô". "Xuân về" là một bài thơ xuân đẹp, cho ta nhiều ấn tượng và yêu thích. Những nét vẽ về "lá nõn, nhành non...", về lúa con gái, "mượt như nhung", về hoa bưởi hoa cam rụng đầy vườn "ngào ngạt hương bay", với "bướm vẽ vòng", tất cả đã gợi lên một bức tranh xuân tươi đẹp, đầy hương sắc, rất mặn mà, thân thuộc. Bức tranh xuân ấy còn có hình ảnh thiếu nữ với má hồng, mắt trong, duyên dáng đi hội chùa làng, với "yếm đỏ khăn thâm"-, còn có bà già đi hội, chống gậy trúc, lần tràng hạt, miệng nam mô. Cảnh xuân, tình xuân được nhà thơ nói đến rất bình dị, mộc mạc, rất thân thuộc đậm đà, đáng yêu. Nguyễn Bính đã gợi lên cái hồn quê nơi thôn quê, đã để thương để nhớ trong lòng người bấy nay. Tình quê, hồn quê là nét đẹp trong "Xuân về" của Nguyễn Bính. Thơ trong sáng, dung dị vơi đầy một tình xuân đồng quê đầm ấm và rung động, thiết tha. Thơ Nguyễn Bính dịu dàng, êm đẹp như ca dao, dân
Phân tích bài thơ "Côn Sơn ca" của Nguyễn Trãi Danh mục Tài liệu khác ... đà trong lòng ta…Phân tích bài thơ "Côn Sơn ca" của Nguyễn TrãiCôn sơn ca Nguyễn TrãiCôn Sơn suối chảy rì rầm,Ta nghe như tiếng đàn cầm bên Sơn có đá rêu phơi,Ta ngồi ... khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.Bản dịch trong sách Thơ chữ Hán Nguyễn TrãiBÀI LÀMTham khảoHọc giả Đào Duy Anh xếp bài thơ “Côn Sơn ca” vào số 87 “Ức trai thi tập” Sách Nguyễn Trãi toàn tập” ... thuộc Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi từng sống với mẹ và ông ngoại tại đấy. Nguyễn Trãi đã xem Côn Sơn là “quê cũ” của mình. Trong “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ông có nhiều bài thơ... 3 6,711 11 Tài liệu Phân Tích bài thơ "Cảnh Ngày Hè" của Nguyễn Trãi - Bài làm 1 doc Danh mục Cao đẳng - Đại học ... “nhàn quan” của vĩ nhân Ức Trai Nguyễn Trãi Phân Tích bài thơ "Cảnh Ngày Hè" của Nguyễn Trãi - Bài làm 1 Cảnh ngày hè Bảo kính cảnh giới là một trong những bài thơ đặc trưng ... thuật của Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ là một bức tranh ngày hè với vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc, là tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước. Bài ... để nói lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ” Tóm lại, về bài thơ Cảnh ngày hè Bảo kính cảnh giới, bài số 43 của Nguyễn Trãi, các nhà biên soạn... 6 6,406 75 Tài liệu Phân tích bài thơ "Côn Sơn ca" của Nguyễn Trãi ppt Danh mục Cao đẳng - Đại học ... nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn. Bản dịch trong sách Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi BÀI LÀM Học giả Đào Duy Anh xếp bài thơ “Côn Sơn ca” vào số 87 “Ức trai thi tập” Sách Nguyễn Trãi toàn tập” ... thuộc Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi từng sống với mẹ và ông ngoại tại đấy. Nguyễn Trãi đã xem Côn Sơn là “quê cũ” của mình. Trong “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ông có nhiều bài thơ ... Ngô đại cáo… là khúc ca thắng trận của người anh hùng thì thơ Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập là tấm lòng, là tâm thế của Ức Trai. “Côn Sơn ca” là bài hát về suối, đá, thông, trúc, là tình... 8 2,281 4 Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến - văn mẫu Danh mục Văn Nghị Luận ... bối cảnh mới. Tất cả những điều đó đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong bài thơ Tiến sĩ giấy bất hủ của trên ý nghĩa bề mặt văn bản bài thơ có thể thấy đối tượng mà Tam nguyên Yên ... qua những bài thơ giàu giá trị nghệ sĩ giấy không chỉ là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ Nguyễn Khuyến mà còn là một trong những hình tượng điển hình có giá trị nhất của văn ... có nhiều bài thơ mang ý vị tự trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân tộc. Tiến sĩ giấy chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ thể hiện tài năng nghệ thuật của một... 4 3,520 11 Phân tích bài thơ Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi - văn mẫu Danh mục Văn Nghị Luận ... Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi từng sống với mẹ và ôngngoại tại đấy. Nguyễn Trãi đã xem Côn Sơn là “quê cũ” của mình. Trong “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ông có nhiều bài thơ Côn ... nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.Bản dịch trong sách Thơ chữ Hán Nguyễn TrãiTrong các bản dịch “Côn Sơn ca” thì bản dịch này là thanh thoát hơn, thể hiện được hồn thơ Nguyễn Trãi đã nhiều ... tuyền của Côn Sơn bằng bốn cảnh Suối, đá, thông và trúc. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả viết bằng thơ bốn chữ và thơ năm chữ, nhằm miêu tả vẻ đẹp Côn Sơn tầng tầng lớp lớp xuất hiện“Côn... 4 2,214 2 Tìm hiểu bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm potx Danh mục Khoa học xã hội ... những thú vui khác của người đời. => Hai câu thơ thể hiện quan niệm về cs nhàn tản, gần gũi với dân. câu thực “Ta dại ta ta tìm nơi vắng vẻ Tìm hiểu bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ... tựa chiêm bao ” - Bài thơ sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt mộc mạc , giản dị , kết hợp chất trữ tình và triết lí sâu xa , phát huy cao độ tác dụng của nghệ thuật đối trong thơ thất ngôn Đường ... mùa nào ứng với thu vui ấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm hòa cùng sinh hoạt của người nông dân. Ta không còn thấy một Trạng Trình,không thấy tư thế cao ngạo , chiễm trệ của một ông quan mà chỉ hiện... 6 3,046 29 Phân tích tính Triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ Nhàn docx Danh mục Cao đẳng - Đại học ... tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân. Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc ... cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của ... dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu... 5 4,521 70 Diễn biến tâm trạng của chàng trai qua bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính - văn mẫu Danh mục Văn Nghị Luận ... phức tạp của chàng trai. Cũng qua những hình ảnh đó mà phong cách thơ của Nguyễn Bính cũng được bộc lộ và làm rõ, một phong cách thơ đậm “hồn quê” và thiết tha với những giá trị cổ truyền của dân ... " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên• tâm trạng của chàng trai trong tâm tư của nguyễn bính, ... bút Nguyễn Bính, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, bình dị diễn biến của một tâm trạng tương tư nhớ mong, bồn chồn, hờn giận, trách móc và khát khao giao hòa gắn kết. Từ đó bài thơ đã nâng... 3 2,041 8 Đọc hiểu bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - văn mẫu Danh mục Văn Nghị Luận ... thể hiện thái độ của nhà thơ đối với cuộc - Liên hệĐọc một số bài thơ khác của Nguyễn Bỉnh Khiêm để so sánh và thấy được sự đa dạng trong phong cách thơ của ông Hễ của tự nhiên có ... hiện bằng những bài thơ có ngôn từ giản dị, tự nhiên mà cô đọng, giàu ý vị. Bài thơ Nhàn trích trong tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi là một trường hợp tiêu Cách đọc Bài thơ thể hiện ... phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm có tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập, tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi, tập sấm kí Trình Quốc công sấm kí,…2. Tác phẩmBao trùm trong thơ Nguyễn Bỉnh... 5 2,363 15 soạn bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm Danh mục Công nghệ ... hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”“Nhàn” là một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhàn theo quan niệm của nhà thơ là sống thuận lợi theo lẽ tự nhiên, không màng danh lợi. Bài ... cái nhãn quan tỏ tường và thông tuệ của nhà thơ. Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên• thuyet minh bai nhan ... cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết biết bao. Câu thơ đ-ưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái... 2 12,549 30 Soạn bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm pdf Danh mục Khoa học xã hội ... những bài thơ khác của các nhà thơ cùng thời ta thấy được đây là cái nhìn tích cực của một thời đại và cho đến hôm nay nó vẫn còn nguyên giá trị. * Nhận xét Quan điểm “Nhàn” của Nguyễn ... hồn của NBK Soạn bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thiệu chung giả -Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585, hiệu Bạch Vân cư sĩ. Là ông quan thanh liêm , chính nhà thơ ... phong kiến có những biểu hiện suy vi , quan điểm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang những yếu tố tích cực . 2/Nghệ thuật . - Bài thơ sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt mộc mạc , giản dị , kết hợp... 6 1,465 8
Thơ Nguyễn Bính “chân quê”, giản dị, mộc mạc, nhẹ nhàng, trong sáng, và hồn nhiên như ca dao trữ tình. Ông viết về làng quê qua lăng kính tình cảm lãng mạn, biểu lộ một tình quê, một hồn quê chân tình và gần gũi. Giáo sư Lê Đình Kỵ có nhận xét về thơ Nguyễn Bính “Nổi bật lên ở Nguyễn Bính là ca dao, ở cảm xúc lẫn tư duy, ở cả ý, tình, và điệu,...” Top 15 bài thơ hay nhất của nhà thơ Nguyễn Bính được yêu thích nhất Bài Tương tư Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười mong một người. Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. Hai thôn chung lại một làng, Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng. Bảo rằng cách trở đò giang, Không sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng đây cách một đầu đình, Có xa xôi mấy mà tình xa xôi... Tương tư thức mấy đêm rồi, Biết cho ai, hỏi ai người biết cho! Bao giờ bến mới gặp đò? Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau? Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng. Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? Hoàng Mai, 1939 Bài thơ này được sử dụng trong phần đọc thêm các chương trình SGK Văn học 11 giai đoạn 1990-2006, Ngữ văn 11 từ 2007. Nguồn 1. Nguyễn Bính, Lỡ bước sang ngang, Nhà in Lê Cường, 1940 2. Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986 3. Tinh tuyển văn học Việt Nam tập 7 Văn học giai đoạn 1900-1945, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004. Bài Chân quê Hôm qua em đi tỉnh về, Đợi em ở mãi con đê đầu làng. Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng. Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi! Nào đâu cái yếm lụa sồi? Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân? Nào đâu cái áo tứ thân? Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen? Nói ra sợ mất lòng em, Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa. Như hôm em đi lễ chùa, Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh. Hoa chanh nở giữa vườn chanh, Thầy u mình với chúng mình chân quê. Hôm qua em đi tỉnh về, Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. 1936 Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trung Đức phổ nhạc thành bài hát cùng tên, và nhạc sĩ Song Ngọc phổ nhạc thành bài hát Hương đồng gió nội. Nguồn 1. Nguyễn Bính, Nước giếng thơi, NXB Hội Nhà văn, 1957 2. Nguyễn Bính, Tâm hồn tôi, Nhà in Lê Cường, 1940 3. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003 4. Nguyễn Bính Hồng Cầu, Nguyễn Bính toàn tập tập 1, NXB Hội Nhà văn, 2017. Bài Mưa xuân I Em là con gái trong khung cửi Dệt lụa quanh năm với mẹ già. Lòng trẻ còn như cây lụa trắng, Mẹ già chưa bán chợ làng xa. Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay, Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy. Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ, Mẹ bảo Thôn Đoài hát tối nay. Lòng thấy giăng tơ một mối tình. Em ngừng thoi lại giữa tay xinh. Hình như hai má em bừng đỏ, Có lẽ là em nghĩ đến anh. Bốn bên hàng xóm đã lên đèn, Em ngửa bàn tay trước mái hiên. Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh, Thế nào anh ấy chẳng sang xem. Em xin phép mẹ vội vàng đi, Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe. Mưa nhỏ nên em không ướt áo, Thôn Đoài cách có một thôi đê. Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm, Em mải tìm anh chả thiết xem. Chắc hẳn đêm nay đường cửi lạnh, Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em. Chờ mãi anh sang anh chả sang, Thế mà hôm nọ hát bên làng. Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn, Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng. Mình em lầm lụi trên đường về, Có ngắn gì đâu môt dải đê! Áo mỏng che đầu, mưa nặng hạt, Lạnh lùng em tủi với đêm khuya. Em giận hờn anh cho đến sáng, Hôm sau mẹ hỏi hát trò gì. “- Thưa u họ hát...” Rồi em thấy Nước mắt tràn ra, em ngoảnh đi. * Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay, Hoa xoan đã nát dưới chân giày. Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ, Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày. Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày! Bao giờ em mới gặp anh đây? Bao giờ Hội Đặng đi ngang ngõ, Để mẹ em rằng hát tối nay? 1936 Bài thơ này đã được nhạc sĩ Huy Thục phổ nhạc thành bài hát cùng tên. Nguồn 1. Nguyễn Bính, Lỡ bước sang ngang, Nhà in Lê Cường, 1940 2. Tinh tuyển văn học Việt Nam tập 7 Văn học giai đoạn 1900-1945, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004 3. Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986 4. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003. Bài Ghen Cô nhân tình bé của tôi ơi! Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười Những lúc có tôi, và mắt chỉ Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi. Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai, Đừng hôn dù thấy bó hoa tươi. Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ, Đừng tắm chiều nay biển lắm người. Tôi muốn mùi thơm của nước hoa, Mà cô thường xức, chẳng bay xa, Chẳng làm ngây ngất người qua lại, Dẫu chỉ qua đường khách lại qua. Tôi muốn những đêm đông giá lạnh, Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô, Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp Một trẻ trai nào trong giấc mơ. Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ, Đừng làm ẩm áo khách chưa quen. Chân cô in vết trên đường bụi, Chẳng bước chân nào được giẵm lên. Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi, Thế nghĩa là yêu quá mất rồi, Và nghĩa là cô và tất cả, Cô, là tất cả của riêng tôi. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trọng Khương phổ nhạc thành bài hát cùng tên. Nguồn 1. Nguyễn Bính, Lỡ bước sang ngang, Nhà in Lê Cường, 1940 2. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003 Bài Lỡ bước sang ngang I. “- Em ơi, em ở lại nhà, Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương. Mẹ già một nắng hai sương, Chị đi một bước trăm đường xót xa. Cậy em, em ở lại nhà, Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương. Hôm nay xác pháo đầy đường, Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng. Chuyến này chị bước sang ngang Là tan vỡ giấc mộng vàng từ nay. Rượu hồng em uống cho say, Vui cùng chị một vài giây cuối cùng. Rồi đây sóng gió ngang sông, Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ Miếu thiêng vụng kén người thờ, Nhà hương khói lạnh, chị nhờ cậy em. Đêm qua là trắng ba đêm, Chị thương chị, kiếp con chim lìa đàn. Một vai gánh lấy giang san... Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương. Mắt quầng, tóc rối tơ vương, Em còn cho chị lược gương làm gì! Một lần này bước ra đi, Là không hẹn một lần về nữa đâu. Cách mấy mươi con sông sâu, Và trăm nghìn vạn dịp cầu chênh vênh. Cũng là thôi... cũng là đành... Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao? Tuổi son nhạt thắm phai đào, Đầy thuyền hận, có biết bao nhiêu người! Em đừng khóc nữa, em ơi! Dẫu sao thì sự đã rồi, nghe em! Một đi bẩy nổi ba chìm, Trăm cay, ngàn đắng, con tim héo dần. Dù em thương chị mười phần, Cũng không ngăn nổi một lần chị đi.” Chị tôi nước mắt đầm đìa, Chào hai họ để đi về nhà ai... Mẹ trông theo, mẹ thở dài, Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran. Tôi ra đứng ở đầu làng, Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa. II. Trời mưa ướt áo làm gì? Năm mười bẩy tuổi chị đi lấy chồng. Người ta pháo đỏ rượu hồng, Mà trên hồn chị một vòng hoa tang. Lần đầu chị bước sang ngang, Tuổi son sông nước đò giang chưa tường. Ở nhà, em nhớ mẹ thương, Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ. Mẹ ngồi bên cửi xe tơ, Thời thường nhắc Chị mày giờ ra sao? “- Chị bây giờ”... Nói thế nào? Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang. Chị từ lỡ bước sang ngang, Trời dông bão, giữa tràng giang, lật thuyền. Xuôi dòng nước chảy liên miên, Đưa thân thế chị tới miền đau thương. Mười năm gối hận bên giường, Mười năm nước mắt bữa thường thay canh. Mười năm đưa đám một mình, Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên. Mười năm lòng lạnh như tiền, Tim đi hết máu, cái duyên không về. “Nhưng em ơi, một đêm hè, Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn. Dừng chân trên bến sông buồn, Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang. Đoái thương, thân chị lỡ làng. Đoái thương phận chị dở dang những ngày. Rồi... rồi... chị nói sao đây! Em ơi, nói nhỏ câu này với em... ...Thế rồi máu trở về tim, Duyên làm lành chị duyên tìm về môi. Chị nay lòng ấm lại rồi, Mối tình chết đã có người hồi sinh. Chị từ dan díu với tình, Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng. “Tim ai khắc một chữ “nàng” Mà tim chị một chữ “chàng” khắc theo. Nhưng yêu chỉ để mà yêu, Chị còn dám ước một điều gì hơn. Một lầm hai lỡ keo sơn, Mong gì gắn lại phím đờn ngang cung. Rồi đêm kia, lệ ròng ròng, Tiễn đưa người ấy sang sông, chị về. “Tháng ngày qua cửa buồng the. Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa.” III. Úp mặt vào hai bàn tay, Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm. “- Đã đành máu trở về tim, Nhưng khôn buộc nổi cánh chim giang hồ. Người đi xây dựng cơ đồ... Chị về giồng cỏ nấm mồ thanh xuân. Người đi khoác áo phong trần, Chị về may áo liệm dần nhớ thương. Hồn trinh ôm chặt chân giường, Đã cùng chị khóc đoạn trường thơ ngây. Năm xưa đêm ấy giường này, Nghiến răng... nhắm mắt... cau mày... cực chưa! Thế là tàn một giấc mơ, Thế là cả một bài thơ não nùng! Tuổi son má đỏ môi hồng, Bước chân về đến nhà chồng là thôi! Đêm qua mưa gió đầy giời, Trong hồn chị, có một người đi qua... Em về thương lấy mẹ già, Đừng mong ngóng chị nữa mà uổng công. Chị giờ sống cũng bằng không, Coi như chị đã ngang sông đắm đò.” Bài thơ này được đăng lần đầu trên Tiểu thuyết thứ năm năm 1939, sau được in trong tập thơ cùng tên. Bài thơ gồm tổng cộng 110 câu lục bát, nội dung là tâm sự của một cô gái vì hoàn cảnh phải đi lấy chồng, bỏ lại mối tình đầu. Bản in trên Tiểu thuyết thứ năm và tập thơ Lỡ bước sang ngang đều đề “Gửi chị Trúc”. Chị Trúc cũng được Nguyễn Bính nhắc đến trong nhiều bài thơ khác, nhưng nguyên mẫu là ai thì có nhiều giả thuyết. Có người cho đó là vợ người anh ruột ông, nhà viết kịch Trúc Đường. Người lại cho đó là một thiếu phụ đã có chồng, thầm yêu Trúc Đường, và từng bỏ chồng ở với Trúc Đường 110 ngày, đúng bằng số câu của bài thơ Nguyễn Bính viết để tặng họ kỷ niệm thời gian sống bên nhau. Sau khi đăng báo, bài thơ được mọi người thuộc đủ tầng lớp, từ bình dân đến trí thức, say mê, và Nguyễn Bính nổi danh khắp nơi. Vì vậy, tập thơ Lỡ bước sang ngang khi ra đời đã được đón nhận rộng rãi. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Song Ngọc phổ nhạc thành bài hát cùng tên. Nguồn 1. Nguyễn Bính, Lỡ bước sang ngang, Nhà in Lê Cường, 1940 2. Tinh tuyển văn học Việt Nam tập 7 Văn học giai đoạn 1900-1945, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004 3. Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986 4. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003. Bài Những bóng người trên sân ga Những cuộc chia lìa khởi tự đây, Cây đàn sum họp đứt từng dây. Những đời phiêu bạt, thân đơn chiếc, Lần lượt theo nhau suốt tối ngày... Có lần tôi thấy hai cô bé, Sát má vào nhau khóc sụt sùi. Hai bóng chung lưng thành một bóng, “- Đường về nhà chị chắc xa xôi?” Có lần tôi thấy một người yêu, Tiễn một người yêu một buổi chiều, Ở một ga nào xa vắng lắm! Họ cầm tay họ, bóng xiêu xiêu. Hai chàng tôi thấy tiễn chân nhau, Kẻ ở sân toa, kẻ dưới tàu, Họ giục nhau về ba bốn bận, Bóng nhoà trong bóng tối từ lâu. Có lần tôi thấy vợ chồng ai, Thèn thẹn đưa nhau, bóng chạy dài, Chị mở khăn giầu, anh thắt lại “- Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!” Có lần tôi thấy một bà già, Đưa tiễn con đi trấn ải xa. Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng, Lưng còng đổ bóng xuống sân ga. Có lần tôi thấy một người đi, Chẳng biết vì đâu, nghĩ ngợi gì! Chân bước hững hờ theo bóng lẻ, Một mình làm cả cuộc phân ly. Những chiếc khăn mầu thổn thức bay, Những bàn tay vẫy những bàn tay, Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt, Buồn ở đâu hơn ở chốn này? * Tôi đã từng chờ những chuyến xe, Đã từng đưa đón kẻ đi về. Sao nhà ga ấy, sân ga ấy, Chỉ để cho lòng dấu biệt ly? Hà Nội, 1937 Nguồn 1. Nguyễn Bính, Nước giếng thơi, NXB Hội Nhà văn, 1957 2. Nguyễn Bính, Tâm hồn tôi, Nhà in Lê Cường, 1940 3. Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng, Việt Nam thi nhân tiền chiến, NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1968 4. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003. Bài Bài thơ quê hương Trải nghìn dặm trời mây bạn tới. Thăm quê tôi, tôi rất đỗi vui mừng! Bạn nán lại cùng tôi thêm buổi nữa. Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương. ...Quê hương tôi có cây bầu cây nhị Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang...” Có cô Tấm náu mình trong quả thị, Có người em may túi đúng ba gang. Quê hương tôi có ca dao tục ngữ, Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi. Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ, Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi. Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất “Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc. Theo người đi cứu nước chống xâm lăng. Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung. Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến, Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng. Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm, Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo. Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”. Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”. Quê hương tôi có Trường Sơn một dải, Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm. Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng. Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son. Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu, Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon. Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc, Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu. Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh, Có cây lim đóng cả một thân tầu. Quê hương tôi có những người con gái “Một ngày hai bữa cơm đèn...” Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm, Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên. Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát; Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ. Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng, Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa. Khi có giặc những tre làng khắp nước, Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông, Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc Thoắt vươn vai thành những anh hùng... Quê tôi đó - bạn ơi! - là thế đó. Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày có Đảng Có Bác Hồ, làm sống lại quê hương. Đánh Nhật, đuổi Tây cứu dân, dựng nước Hai mươi năm kể biết mấy công trình! Và từ đây, núi sông và cuộc sống. Và quê hương mới thực sự của minh. Cuộc đời mới con người cũng mới, Khắp bốn phương lộng lẫy ánh sao cờ, “Đoàn quân Việt Nam đi... chung lòng cứu quốc...” Đầu ngẩng cao từ cách mạng mùa thu. Những xiềng xích nghìn năm đều bẻ gãy. Những bài ca điệu múa lại vui tươi. Những trận khóc đêm dài không có nữa. Thành thị nông thôn rộn rã tiếng cười. Trong luỹ tre xanh vui mùa hợp tác, Mái ngói nhô lên như những nụ hoa hồng. Chung ruộng, chung trâu, chung lòng, chung sức Chung con đường gặt lấy ấm no chung. Trong xưởng máy tưng bừng như đám hội. Những chủ nhân là chính những công nhân. Tiếng máy reo chen tiếng cười tiếng hát, Chẳng còn đâu tiếng chủ thét, cai gầm! Những nhà thơ được tự do ca ngợi, Quê hương. Tổ quốc, con người... Và đời sống khỏi túng, nghèo, đói, khổ. Khỏi bị ai khinh rẻ, dập vùi! Đời trước thường mơ chuyện tiên, chuyện Phật, Truyện thiên đường trong những cõi hư vô... Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất, Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa. Khi con người được tự do giải phóng. Đất rộng hơn mà trời cũng xanh hơn. Quả trên cành cũng thêm ngon, thêm ngọt, Hoa trong vườn cũng thêm sắc, thêm hương. Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ Ngày càng thêm thắm thiết, ngọt ngào. Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị, Và Nguyễn Du mới thành đại thi hào. Thửa ruộng cũ cấy thêm mùa lúa mới, Khung trời quê mọc những nóc lò cao. Dây “cao thế” đã chăng dài khắp nẻo, Xóm làng tôi điện sẽ át trăng sao. Những gỗ tốt đã dựng câu lạc bộ, Gạo tám xoan thơm bếp lửa nhân dân. Những cô Tấm tự tay xây hạnh phúc Chẳng phải gian nan hoá kiếp mấy lần. Và lớp lớp những anh hùng xuất hiện. Sức thanh niên sức Phù Đổng là đây! Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại, Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay. Hội Diên Hồng thôn xã nào cũng mở, Chuyện “kháng chiến trường kỳ” ai cũng nhớ nhập tâm. “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” Câu ấy giờ đây đã đúng cả trăm phần. Đảng cùng dân đã viết thêm lịch sử, Lửa Điện Biên sáng dậy cả trăm năm. Lửa Ấp Bắc, Chu Lai cũng bừng rực rỡ, Lửa chiến công đang chói lọi miền Nam. Khi có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo; Có truyền thống cha ông để lại tự bao đời. Thì đánh Mỹ nhất định là phải thắng Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi. *** Câu chuyện quê tôi, sơ sài mấy nét. Bạn trở về xin kể mọi người hay. Riêng phần tôi có thơ này tặng bạn, Tặng quê mình, nhân dịp tết năm nay. Tết Bính Ngọ, 1966 Nguồn 1. Báo Văn nghệ Nam Hà, số Tết Bính Ngọ 1966, trang 3 2. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003. Bài Hành phương Nam Đôi ta lưu lạc phương Nam này Trải mấy mùa qua én nhạn bay Xuân đến khắp trời hoa rượu nở Mà ta với người buồn vậy thay Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu Mà không uống cạn mà không say Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã Mà áo khinh cừu không ai may Người giam chí lớn vòng cơm áo Ta trí thân vào nợ nước mây Ai biết thương nhau từ buổi trước Bây giờ gặp nhau trong phút giây Nợ thế chưa trả tròn một món Sòng đời thua đến trắng hai tay Quê nhà xa lắc, xa lơ đó Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc Ly tán vì cơn gió bụi này Người ơi buồn lắm mà không khóc Mà vẫn cười qua chén rượu đầy Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết Ngày mai ra sao rồi hãy hay Ngày mai có nghĩa gì đâu nhỉ? Cốt nhất cười vui trọn tối nay Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt Giữa chợ ai người khóc nhận thây Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay? Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự Giày cỏ gươm cùn ta đi đây Ta đi nhưng biết về đâu chứ? Đã đẩy phong yên lộng bốn trời Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ Uống say mà gọi thế nhân ơi! Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ Ta với nhà ngươi cả tiếng cười Dằn chén hất cao đầu cỏ dại, Hát rằng phương Nam ta với ngươi. Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề ngươi ơi! Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề ngươi ơi! Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh, Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi... Đa Kao 1943 Nguồn Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003. Bài Từ đó về đây Từ đó về đây sống rất nghèo Bạn bè chỉ có gió trăng theo Những thằng bất nghĩa xin đừng đến Hãy để thềm ta xanh sắc rêu Nguồn Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986. Bài Xuân vẫn tha hương Gửi chị Trúc Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió; Xuân này em chị vẫn tha hương, Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ, Son sắt say hoài rượu bốn phương. Em đi non nước xa khơi quá! Mỗi độ xuân về bao nhớ thương; Mỗi độ xuân về em lại thấy, Buồn như tên lính ở biên cương. Thời chưa gặp đỏ, nằm xuông mãi; Xuông cả ân tình rượu cũng xuông. Trước mặt bút nghiên, sầu tịch mịch, Quanh mình chăn chiếu rộn tang thương. Một thân quán trọ sầu phong toả. Đốt ngọn đèn lên, bóng rợn tường. Đêm ba mươi Tết quê người cũng, Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương. Chị ạ, em không người nước Sở, Nhớ nhà đâu mượn địch Trương Lương. Đất khách tình dâng hoà mắt lệ, Ôi nhà! Ôi chị! Ôi quê hương! Từ em lưu lạc ngoài muôn dặm, Một đoạn đường đi một đoạn trường. Cửa quan chẳng mở, đầu Viên bạc; Tri kỷ không ai, mắt Tịch cuồng. Thôn dã từng quen mùi đạm bạc, Thị thành thêm chán miếng cao lương. Vụng tính bỏ rơi đi hạnh phúc, Xảy ra đánh vỡ mất thiên đường. Trăm ván cờ cao, trăm ván bại, Nước người thêm thẹn tiếng mang chuông. Trò đời cúi mặt xem thiên hạ, Thực đáng cười thay, thực đáng thương! Trọc phú ti toe bàn thế sự; Đĩ già tấp tểnh nói văn chương. Đã coi đồng bạc như non Thái, Lại học đòi theo thói Mạnh Thường. Lẳng lơ đi võng, đi tàn cả; Gái chính chuyên kia đứng vệ đường. Đất đổi hoa màu, nhà đổi chủ, Trâu quên mục tử, ngựa quên chuồng. Thay đen đổi trắng bao canh bạc; Vẽ nhọ, đen râu mấy lớp tuồng. Trói vo hồn lại ba đồng bạc, Bán rẻ đời đi nửa đấu lương. Chao ôi! Giả dối, ôi mai mỉa! Sống chật phồn hoa một lũ Mường. Chị ơi, tất cả là vô nghĩa, Chả nhiễu điều nào phủ giá gương. Tay trắng bạn bè đều tránh mặt; Sa cơ thân thích cũng khinh thường. Sông lạnh thấy đâu người gọi gió; Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm. Áo xanh bạc nửa màu sương gió, Xót kẻ ăn nằm trong gió sương. Đầy vơi tâm sự cùng ai tỏ, Mộng lạnh đêm xưa, chiếu lạnh giường. Quê nhà gối chiếc, thôi rồi kẻ, Chia nửa vầng trăng với dặm trường. Son phấn hững hờ niềm sắt đá, Sông hồ vò võ nỗi yên cương. Chị ạ, duyên em mà chẳng đẹp, Chỉ vì không đọc chuyện Tây Sương. Người yêu buổi ấy lên xe cưới, Cũng khóc cho tròn ý nhớ thương. Khấp như sử nữ vu quy nhật. Lệ có thành sông, chuyện cũng thường. Trò đời chẳng hẹn nhau lần gặp; Đập nát cho rồi nửa mảnh gương. Duyên mới đẹp lòng người sử nữ; Đầu sông ai nhớ cuối sông Tương. Tàn lạnh lòng em từ buổi ấy, Vơi tình thôi hết cả tơ vương. Chị ở quê chồng, xuân có đẹp? Con đò bến cũ có thê lương? Nêu cao, pháo nổ, trầm thơm ngát. Hoa bưởi, hoa cam rụng ngập vườn. Mưa xuân rắc bụi quanh làng mạc, Gái lịch, trai thanh chật phố phường. Lá lộc hồ tơ, tay ngọc hái, Sông hồ vò võ nỗi yên cương. Nhưng dù Tết đẹp hay xuân đẹp, Chắc chị chưa hề nguôi nhớ thương. Người đi buổi ấy tàn hoa phượng, Cõi Thục xa xôi mấy dặm trường. Phong ba từ nổi trong đời chị, Tóc rối xuân xanh, má nhạt hường. Qua đò mấy độ sầu sông nước, Dệt mộng bao lần tủi phấn hương. Tháng hẹn chờ rơi cơn lá úa, Đêm Tần đợi khuyết cái trăng xuông Chỉ tổ tài cao, trời đất ghét, Một thân oan khổ có trăm đường Cuối thu mưa nát lòng dâu bể, Ngày muộn, chuông đau chuyện đá vàng. Em thường cầu nguyện thường van vái, Một sớm thanh bình mặt đại dương. Bao giờ em được về quê cũ, Dâng chị bài thơ xuân cố hương. Bài Viếng hồn trinh nữ Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh, Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ, Tôi thấy quanh tôi và tất cả Kinh thành Hà Nội quấn khăn sô. Nước mắt chạy quanh, tình thắt lại, Giờ đây tôi khóc một người về, Giờ đây tôi thấy hồn cay đắng, Như có ai mời chén biệt ly. Sáng nay vô số lá vàng rơi, Người gái trinh kia đã chết rồi. Có một chiếc xe màu trắng đục, Hai con ngựa trắng bước hàng đôi, Đem đi một chiếc quan tài trắng, Và những vòng hoa trắng lạnh người. Theo bước những người khăn áo trắng, Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi. Để đưa nàng đến nghĩa trang này, Nàng đến đây rồi ở lại đây. Ờ nhỉ! Hôm nay là mấy nhỉ, Suốt đời tôi nhớ mãi hôm nay... Sáng nay, sau một cơn mưa lớn, Hà Nội bừng lên những nắng vàng. Có những cô nàng trinh trắng lắm, Buồn rầu theo vết bánh xe tang. Từ nay xa cách mãi mà thôi, Tìm thấy làm sao được bóng người, Vừa mới hôm nào còn thẹn thẹn. Tay cầm sáp đỏ đặt lên môi. Chiếc áo màu xanh tựa nước hồ, Nàng vừa may với gió đầu thu. Gió thu còn lại bao nhiêu gió, Chiếc áo giờ đây ở dưới mồ! * Chắc hẳn những đêm như đêm qua, Nàng còn say mộng ở chăn hoa. - Chăn hoa ướp một trời xuân sắc - Đến tận tàn canh, rộn tiếng gà. Chắc hẳn những đêm như đêm kia, Nửa đêm lành lạnh gió thu về. Nàng còn thao thức ôm cho chặt Chiếc gối nhung mềm giữa giấc mê. Nhưng sáng hôm nay nàng lặng im, Máu đào ngừng lại ở nơi tim. Mẹ già xé vội khăn tang trắng, Quấn vội lên đầu mấy đứa em. Người mẹ già kia tuổi đã nhiều, Đã từng đau khổ biết bao nhiêu! Mà nay lại khóc thêm lần nữa, Nước mắt còn đâu buổi xế chiều? Những đứa em kia chưa khóc ai, Mà nay đã khóc một người rồi! Mà nay trên những môi ngoan ấy, Chả được bao giờ gọi Chị ơi! * Nàng đã qua đời để tối nay, Có chàng đi hứng gió heo may, Bên hồ để mặc mưa rơi ướt, Đếm mãi bâng quơ những dấu giầy... Người ấy hình như có biết nàng, Có lần toan tính chuyện sang ngang. Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé, Vội cắm nghìn thu ở suối vàng. Có gì vừa mất ở đâu đây? Lòng thấy mềm như rượu quá say. Hốt hoảng chàng tìm trong bóng tối Bàn tay lại nắm phải bàn tay. * Chỉ một vài hôm nữa, thế rồi Người ta thương nhớ có ngần thôi. Người ta nhắc đến tên nàng để, Kể chuyện nàng, như kể chuyện vui. Tôi với nàng đây không biết nhau, Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu? “Mới hay tự cổ bao người đẹp, Chẳng hẹn trần gian đến bạc đầu.” Hà Nội, 1940 Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân phổ nhạc thành bài hát Hồn trinh nữ. Nguồn 1. Nguyễn Bính, Lỡ bước sang ngang, Nhà in Lê Cường, 1940 2. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003 3. Hoàng Hồng, Nguyễn Bính - thơ, NXB Văn học, 2010. Bài Cô hái mơ Thơ thẩn đường chiều một khách thơ, Say nhìn xa rặng núi xanh lơ, Khí trời lặng lẽ và trong trẻo, Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ. Hỡi cô con gái hái mơ già! Cô chửa về ư? Đường thì xa, Mà ánh trời hôm dần một tắt, Hay cô ở lại về cùng ta? Nhà ta ở dưới gốc cây dương, Cách động Hương Sơn nửa dặm đường, Có suối nước trong tuôn róc rách, Có hoa bên suối ngát đưa hương. Cô hái mơ ơi! Chả giả lời nhau lấy một lời, Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng, Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi. 1937 Đây là bài thơ đầu tiên của Nguyễn Bính gửi đăng báo, trên Tiểu thuyết thứ năm. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát cùng tên. Nguồn 1. Nguyễn Bính, Lỡ bước sang ngang, Nhà in Lê Cường, 1940 2. Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986 3. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003 Bài Đêm cuối cùng Hội làng mở giữa mùa thu, Giời cao, gió cả, giăng như ban ngày. Hội làng còn một đêm nay, Gặp em còn một lần này nữa thôi! Phường chèo đóng Nhị độ mai, Sao em lại đứng với người đi xem? Mấy lần tôi muốn gọi em, Lớp Mai Sinh tiễn Hạnh Nguyên sang Hồ. Tình tôi mở giữa mùa thu, Tình em lẳng lặng kín như buồng tằm. 1936 Nguồn 1. Nguyễn Bính, Nước giếng thơi, NXB Hội Nhà văn, 1957 2. Nguyễn Bính, Tâm hồn tôi, Nhà in Lê Cường, 1940 3. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003 Bài Cưới vợ Nàng đi lấy chồng Hôm nay ăn hỏi tưng bừng, Ngày mai thì cưới, độ chừng ngày kia. Nàng cùng chồng mới nàng về, Rồi cùng chồng mới nàng đi theo chồng. Tôi về dạm vợ là xong! Vợ người làng, vợ xóm đông, quê mùa. Vợ tôi không đợi, không chờ, Không nhan sắc mấy, không thơ mộng gì. Lấy tôi bởi đã đến thì, Lấy tôi không phải là vì yêu tôi. Hôm nay tôi cưới vợ rồi, Từ nay tôi đã là người bỏ đi! Pháo ơi! mày nổ làm gì? Biến ra tất cả pháo xì cho tao! Có sách in tiêu đề bài thơ là Nàng đi lấy chồng. Nguồn 1. Nguyễn Bính, Tâm hồn tôi, Nhà in Lê Cường, 1940 2. Kiều Văn, Thi ca Việt Nam chọn lọc - Thơ tình Nguyễn Bính, NXB Đồng Nai, 2005. Bài Không hẹn ngày về Anh đi chẳng hẹn ngày về, Chỉ thề ao buộc, tóc thề ai chôn? Muốn gì, em muốn gì hơn! Hôn hoàng nay lại hoàng hôn mai ngày. Môi khô tóc liễu thân gầy, Anh xa, em kẻ lông mày với ai? Thơ không làm trọn một bài, Đàn không gượng gẩy một vài khúc ngâm. Ông tơ già lắm nên nhầm, Ai cho sum họp, ai làm chia phôi. Chẳng thà đừng kết duyên đôi, Có cho đoàn tụ để rồi xa nhau. Tính năm tính tháng thêm rầu, Ấy hai con én ngang lầu bay bay. Nguồn Thơ và giai thoại Nguyễn Bính, Vũ Nam, NXB Lao Động, 1999 Trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn những tác phẩm thơ hay, ấn tượng nhất của thi sĩ Nguyễn Bính, cảm ơn đã theo dõi bài viết. Tham khảo thêm nhiều bài thơ hay của những tác giả nổi tiếng khác tại chuyên trang của chúng tôi. ► CLICK NGAY nút TẢI VỀ dưới đây để tải và in tập thơ của Nguyễn Bính.
Mục lục1 Nguyễn Bính – Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bính và Những bài thơ Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Các tác phẩm nổi bật của Nguyễn Nét chân quê trong thơ Nguyễn Bính Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ Mới 1932-1945. Những sáng tác của ông gây ấn tượng với công chúng bằng ngôn ngữ mộc mạc,giản dị. Với hình ảnh dân dã mang đậm tinh thần dân tộc. Trong khi những nghệ sĩ đương thời đều chọn hướng sáng tác thơ tự do,phóng khoáng, ảnh hưởng của phương Tây thì Nguyễn Bính lại chọn cho mình một con đường riêng khác biệt. Thơ của ông như tiếng đàn bầu du dương,da diết cất lên những giai điệu dân tộc giữa một giàn nhạc giao hưởng hiện đại trên thi đàn thời bấy giờ. Cũng chính bởi tính gần gũi và trung thành với những những chất liệu truyền thống của dân tộc nên thơ Nguyễn Bính có sức sống vô cùng bền lâu trong lòng công chúng. Nguyễn Bính Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bính Nguyễn Bính 1918-1966 tên thật là Nguyễn Trọng Bính,sinh ra tại Vụ Bản,tỉnh Nam Định. Một vùng quê Bắc Bộ vốn nổi tiếng với truyền thống văn chương,khoa bảng. Nơi ấy mang những đặc trưng của làng quê Bắc bộ xưa với những đêm hát giao duyên giữa các liền anh liền chị ,những gánh hát chèo giữa các thôn. Những sinh hoạt văn hóa đó đã ảnh hưởng rất nhiều tới những sáng tác của Nguyễn Bính sau này. Ông sáng tác từ rất sớm,với tập thơ “ Tâm hồn tôi” ông đã giành được giải thưởng của “Tự lực văn đoàn”. Nguyễn Bính được nhận xét là người rất đào hoa và lãng mạn. Ông trải qua nhiều mối tình và nhiều cuộc hôn nhân. Thế nhưng,trong sự nghiệp văn chương thì ông lại vô cùng chỉn chu,cần mẫn ,đều đặn sáng tác. Người có ảnh hưởng nhiều nhất trong cuộc đời thơ ca của ông chính là Đại thi hào Nguyễn Du. Ông luôn coi Đại thi hào Nguyễn Du là thần tượng số một của mình. Chính bởi sự ngưỡng mộ đó,nên những vần thơ của Nguyễn Bính có đôi lúc phảng phất âm hưởng của truyện Kiều. Ông yêu văn hóa dân tộc ,yêu ngôn ngữ dân tộc và yêu tất cả những chất liệu thơ ca truyền thống. Các tác phẩm nổi bật của Nguyễn Bính + Lỡ bước sang ngang1940 + Tâm hồn tôi1940 + Hương cố nhân 1941 + Mây Tần1942 + Bóng giai nhân1942 + Tình nghĩa đôi ta 1960 … Nét chân quê trong thơ Nguyễn Bính Thơ Nguyễn Bính đặc trưng cho sự mượt mà ,giản dị. Ông vận dụng khéo léo thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp với những hình ảnh gần gũi ,mộc mạc của làng quê. Bởi thế cho nên những vần thơ của ông cất lên nhẹ nhàng và duyên dáng như những bài ca dao ngọt ngào ,đằm thắm như những làn điệu chèo. Một bức tranh làng quê Bắc Bộ hiện lên thật đẹp và bình yên với hình ảnh cây đa,bến nước,sân đình ,bờ đê …và cả những người quê như cô thôn nữ,cô lái đò,anh hàng xóm,bà mẹ già… -“Chân quê” lời tuyên ngôn cho tình yêu với văn hóa truyền thống ,với những phong tục đẹp của nhà thơ Nguyễn Bính “Hôm qua em đi tỉnh về Đợi em ở mãi con đê đầu làng Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi! Nào đâu cái yếm lụa sồi? Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân? Nào đâu cái áo tứ thân? Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?” Thơ Nguyễn Bính Trong bài thơ này vẫn cô gái đó ,vẫn làng quê đó, thế nhưng hôm ấy mọi thứ đã có chút gì khang khác. Những cô thôn nữ từ quê bước ra phố và khi trở về họ đã không còn giữ được những nét chân quê,mộc mạc nữa. Thay vì áo yếm,quần đùi,áo tứ thân, khăn mỏ quạ thì nay đã thay đổi thành khăn nhung, quần lĩnh ,áo cài khuya bấm… Cuộc sống ngày một phát triển, khi văn hóa phương Tây tràn vào cách ăn mặc của con người sẽ có sự thay đổi theo. Nhà thơ không dám trách chỉ mong muốn “van em em hãy giữ nguyên quê mùa”. Phải là người yêu văn hóa truyền thống, yêu những nét đẹp Việt Nam thì nhà thơ mới nặng lòng như thế. Ông luôn khao khát dù cuộc sống có thay đổi như thế nào thì những người dân quê vẫn luôn giữ được những nét chân quê vốn có. “Chân quê” ở đây là những đức tính tốt đẹp từ ngàn đời nay của những người dân quê. Đó là hồn hậu,chân chất,giản dị sống nghĩa tình có trước có sau. Là lưu giữ duy trì được những phong tục tập quán truyền thốngcủadântộc. -“Mưa xuân” bức tranh đẹp và lãng mạn về ngày xuân nơi vùng quê Bắc bộ. Mùa xuân ấy đặc trưng với những làn mưa bụi, với màu tím của hoa xoan,với cả những hội chèo khai xuân tưng bừng ,rộn rã. Trong tiết xuân trong trẻo và hạnh phúc đó xen lẫn những câu chuyện lứa đôi. Những nhớ thương của biết bao chàng trai ,cô gái. “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy Hội chèo làng ặng đi ngang ngõ Mẹ bảo “Thôn oài hát tối nay” Mưa Xuân Cứ mỗi độ xuân về khi làng mở hội thì trai gái lại kéo nhau nườm nượp du xuân. Họ đến đó để nghe hát chèo ,để tham gia vào các trò chơi truyền thống. Nhưng cũng đến để tìm cho mình một hình bóng người gái trong bài thơ cũng vậy, hội làng mùa xuân năm đó cô đã tìm thấy người trong mộng của mình. Chỉ chờ tới mùa xuân năm nay khi mưa xuân bay phơi phới để được gặp gỡ ,hò hẹn với người mình yêu. Cảm giác nhớ nhung,đợi chờ,phấp phỏng,trông ngóng của người con gái khi yêu ,chỉ chờ tới ngày làng khai nhưng,mùa xuân này cô gái đành lũi thủi bước ra về. Bởi cô chẳng gặp được người thương năm ấy,mùa xuân cũng héo hắt,buồn bã theo. “Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay Hoa xoan đã nát dưới chân giày Hội chèo làng ặng về ngang ngõ Mẹ bảo “Mùa xuân đã cạn ngày.” -“Tương tư” – tình đơn phương bắt đầu bằng nỗi nhớ. Tình yêu luôn là nguồn cảm hứng vô tận trong thi ca. Cũng giống như những nhà thơ đương thời, Nguyễn Bính cũng không thể đứng ngoài đề tài dào dạt cảm xúc đó. Tình yêu của ông ở một khía cạnh khác. Đó chính là tình đơn phương. Bởi vì tình yêu đến từ một phía nên người con trai ấy chỉ biết tương tư,nhung nhớ mà thôi “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười thương một người” Tương Tư – Nguyễn Bính Tình yêu đến tự nhiên và đôi lúc chính người trong cuộc cũng không thể giải thích được. Đôi lúc chỉ bắt gặp một ánh mắt,một nụ cười cũng khiến con người ta say cả một đời. Để rồi những năm tháng chỉ biết nhớ nhung,chờ đợi và dành hết tình cảm cho người đó mà nhiều lúc người kia lại vô tình,hỡ hững. Để rồi kẻ tương tư lâu ngày hóa thành “căn bệnh trầm kha”. Ai trong đời mà không một lần trải qua tâm trạng khổ sở và giày vò này “Gió mưa là bệnh của giời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.” Thơ Nguyễn Bính hội tụ tất cả những tinh hoa của “chân quê” ,của “hương đồng gió nội”. Nhớ về Nguyễn Bính, chúng ta nhớ tới những hoa cau vườn trầu,nhớ bờ đê lộng gió,nhớ tới những hội chèo. Những gánh hát giao duyên của những chàng trai cô gái và cả nỗi tương tư trải dài nhung nhớ. Ông có lẽ là một đại diện tiêu biểu nhất của thi sĩ đồng quê như đánh giá của nhà văn Tô Hoài “Chỉ có quê hương mới tạo ra được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đề thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên. Khi ấy xuất hiện những bài thơ tình yêu tuyệt vời của Nguyễn Bính.
bai tho co hang xom cua nguyen binh